Chủ Nhật, 17 tháng 12, 2017

CÓ NÊN LẤY RÁY TAI CHO BÉ


Cách tốt nhất để xử lý ráy tai của trẻ là không làm gì cả. Hãy để yên, đừng đào bới trong tai của bé. Đừng bao giờ dùng tăm bông ngoáy tai cho con. Rất nhiều trẻ đã bị thủng màng nhĩ do cha mẹ quá nhiệt tình ‘nạo vét’, hoặc do bé tò mò, dùng tăm bông thọc vào tai mình đúng như cách mà mẹ vẫn làm với bé.  
Ráy tai là hỗn hợp hòa tan trong nước của da chết, lông và chất tiết từ các tuyến nhầy ở ống tai. Ráy tai chỉ được hình thành ở 1/3 ngoài của ống tai, phần sâu bên trong gần với màng nhĩ không sản sinh chất này. Ráy tai giúp điều hòa pH, diệt khuẩn, diệt nấm và bảo vệ lớp lót nhạy cảm của ống tai khỏi tác động của nước. Đây là một phần cơ chế tự bảo vệ của tai, giúp làm sạch, ngăn không cho bụi và vi khuẩn từ môi trường đi sâu vào bên trong tai, gây tổn thương hoặc nhiễm trùng màng nhĩ. Sự tích tụ của ráy tai không hề gây nhiễm trùng tai như nhiều người thường nghĩ. Trái lại, thiếu các thành phần bôi trơn và diệt khuẩn của ráy tai, tai có thể bị khô và ngứa. 

Nhiều người nhầm tưởng rằng cần loại bỏ ráy tai hàng ngày như một biện pháp vệ sinh thân thể. Thực tế không phải như vậy, bình thường cha mẹ không cần làm vệ sinh ống tai cho bé. Trong đa số trường hợp, ống tai ngoài sẽ tự làm sạch. Nhờ động tác nhai và chuyển động của hàm, ráy tai cũ và các tế bào da chết liên tục di chuyển từ phía màng nhĩ tới lỗ tai ngoài. Chúng khô dần và rơi ra ngoài. Ai cũng có ráy tai nhưng số lượng và tính chất của chất tiết bị chi phối bởi yếu tố di truyền, cũng giống như màu tóc hay chiều cao của bạn. Không rõ vì lý do gì, một số người có xu hướng sản sinh nhiều ráy tai hơn những người khác và một số gia đình sản sinh nhiều ráy tai hơn những gia đình khác. Một số gia đình cũng có xu hướng tạo ráy tai cứng và thô hơn. 

Ống tai ngoài quá nhỏ hoặc hình dáng khác thường có thể khiến ráy tai khó thoát ra ngoài, dẫn tới hình thành nút ráy tai. Nút ráy tai cũng xuất hiện khi chất này bị đẩy sâu vào trong ống tai. Khoảng 6% trong chúng ta có nút ráy tai. Nguyên nhân hay gặp nhất là do sử dụng tăm bông hoặc những vật dụng khác để lấy ráy tai. Rất tiếc, động tác này chỉ giúp loại bỏ phần ráy tai ở nông bên ngoài, trong khi lại đẩy phần ráy tai còn lại vào sâu hơn bên trong, tạo điều kiện hình thành nút ráy tai.  

Trên thực tế, không ít cha mẹ tỏ ra quá sốt sắng trong việc làm vệ sinh ống tai cho con. Tốt nhất nên tránh dùng tăm bông hoặc các vật dụng dài để đưa vào tai của trẻ. Khi quá mạnh tay, tăm bông còn có thể làm tổn thương, thậm chí gây thủng màng nhĩ. Hàng ngày, khi tắm cho bé, mẹ chỉ cần dùng khăn ướt lau nhẹ vùng tai ngoài là đủ. 

Khi nào cần lấy ráy tai ? 

Ráy tai chỉ thực sự gây rắc rối trong hai trường hợp. Thứ nhất, khi chúng tích tụ quá nhiều, cản trở việc quan sát màng nhĩ của bác sĩ trong lúc thăm khám. Thứ hai, khi chúng gây tắc nghẽn hoàn toàn ống tai ngoài. Lúc này thính lực của trẻ có thể bị giảm. Cảm giác tắc nghẽn hoặc giảm thính lực có thể tăng sau khi trẻ tắm hoặc bơi, do nút ráy tai gặp nước trương to lên. Trường hợp nút ráy tai che lấp toàn bộ màng nhĩ, trẻ có thể mất khả năng nghe tạm thời. Với trẻ nhỏ đang trong giai đoạn học nói, nút ráy tai để quá lâu có thể khiến bé chậm nói.  

Khi khám và phát hiện trẻ có nhiều ráy tai, gây trở ngại cho việc quan sát toàn bộ màng nhĩ, bác sĩ có thể dùng dụng cụ chuyên dụng để loại bỏ ráy tai. Trường hợp ráy tai cứng khó lấy và màng nhĩ không bị thủng, bác sĩ có thể khuyên mẹ làm mềm ráy tai tại nhà trước khi đưa bé đi khám lại. 
1. Làm mềm ráy tai bằng dầu oliu

Chuẩn bị

– Một chút dầu oliu.
– Một chiếc thìa nhỏ hay một bơm tiêm không có kim (loại bơm tiêm nhựa 1ml dùng một lần bán ở hiệu thuốc).

Mỗi ngày một lần, tiến hành nhỏ vài giọt dầu oliu vào bên tai cần loại bỏ ráy tai, lặp lại trong vòng 2 tuần.

Các bước thực hiện

– Bước 1: Đặt bé nằm nghiêng, bên tai cần làm vệ sinh nằm ở phía trên. Cho bé xem TV hoặc đọc truyện cho bé nghe.
– Bước 2: Đổ vài giọt dầu ô liu vào một chiếc thìa cà phê hoặc dùng bơm tiêm nhựa không kim hút một chút dầu.
– Bước 3: Nhẹ nhàng kéo vành tai (A).
– Bước 4: Đổ dầu vào ống tai (C).

– Bước 5: Day nhẹ gờ bình tai (B) trong khi vẫn kéo vành tai. Lặp lại động tác này nhiều lần để dầu di chuyển sâu vào trong và làm tan ráy tai. Sau khi nhỏ dầu, nên cố gắng giữ bé nằm yên ở tư thế này thêm khoảng 5 phút.

Không có gì nguy hiểm khi thực hiện thủ thuật này nhưng cần thận trọng, chỉ sử dụng một chút dầu oliu. 
  
2. Làm mềm ráy tai bằng dung dịch oxy già pha loãng

Trường hợp dầu oliu không phát huy tác dụng, bác sĩ có thể hướng dấn cha mẹ dùng dung dịch oxy già pha loãng để làm vệ sinh tai.

Chuẩn bị

– Hỗn hợp làm mềm ráy tai: Hòa nước ấm với dung dung dịch oxy già 3% mua ở hiệu thuốc theo tỉ lệ 1:1.
– Một bơm tiêm không có kim (loại bơm tiêm nhựa 5 ml dùng một lần bán ở hiệu thuốc).

Nhỏ hỗn hợp làm mềm ráy tai mỗi ngày 1 lần, trong vòng 3-5 ngày.

Các bước thực hiện:

– Bước 1: Đặt bé nằm nghiêng, bên tai cần làm vệ sinh nằm ở phía trên. Cho bé xem TV hoặc đọc truyện cho bé nghe.
– Bước 2: Dùng bơm tiêm nhựa không kim hút hỗn hợp làm mềm ráy tai đã pha chế.
– Bước 3: Nhỏ hỗn hợp này vào tai cho tới khi ngập ống tai ngoài. Thường cần khoảng 5 -10 giọt. Nên nhỏ từ từ, từng giọt một, để mỗi giọt có thể đi sâu vào trong, làm mềm ráy tai. Động tác này có thể khiến bé khó chịu và phản ứng. Đây là lúc để bạn trổ tài dụ trẻ của mình. Giữ bé nằm yên trong 5 phút. Nếu trẻ không phối hợp thì có thể chấp nhận thời gian ngắn hơn.
– Bước 4: Nghiêng đầu bé theo hướng ngược lại để các giọt thuốc chảy ra ngoài.
Lặp lại động tác này 1 lần mỗi ngày trong vòng 3-5 ngày.

Sau ngày cuối cùng, bạn có thể tiến hành rửa tai cho bé. Đặt bé ngồi thẳng, nghiêng đầu vào bồn rửa hay chậu, dùng bơm tiêm nhựa không có kim bơm nhẹ một chút nước ấm vào tai của bé. Chú ý pha nước đủ ấm, nước quá lạnh hoặc quá nóng có thể khiến bé rất khó chịu. Lúc này, bạn có thể thể nhìn thấy những mẩu ráy tai trôi ra ngoài. Nếu không, cần tiếp tục nhỏ hỗn hợp làm mềm ráy tai thêm vài ngày.

Nếu bác sĩ nói ống tai của bé bị ráy tai che kín hoàn toàn, bạn nên đưa con đi khám lại sớm nhất khoảng 1 tuần sau khi đã hoàn thành liệu trình vệ sinh tai mô tả ở trên. Nếu ráy tai tích tụ trở lại, gây tắc nghẽn tái phát, bác sĩ có thể khuyên bạn lặp lại việc nhỏ dung dịch oxy già pha loãng vào ống tai rồi rửa tai bằng nước ấm khoảng 1-2 lần mỗi tháng. Lưu ý, điều này cần được thực hiện theo chỉ dẫn của bác sĩ và chỉ nên áp dụng cho những trẻ bị tắc nghẽn tai hoàn toàn tái đi tái lại.


BS Trần Thu Thủy (bv Nhi TW)
Nguồn: http://benhviennhitrunguong.org.vn/co-nen-lay-ray-tai-cho-be.html

Thứ Bảy, 16 tháng 12, 2017

Khi nào cần nạo VA hoặc cắt amidan cho trẻ ?

Nạo VA và cắt amidan sẽ chỉ được bác sĩ tai mũi họng đề cập sau quá trình bệnh lý kéo dài, bao gồm viêm VA/amidan mạn tính tái đi tái lại nhiều lần, gây biến chứng gần và xa; VA/amdian phì đại khiến trẻ phải thở bằng miệng, nghẹt mũi, ngủ ngáy, ngủ không yên giấc, ngừng thở khi ngủ... 









Trên thực tế, ngay cả khi bác sĩ đã cân nhắc kỹ và chỉ định nạo VA hoặc cắt amidan cho trẻ vì không có lựa chọn nào khác, một số phụ huynh vẫn tỏ ra quá dè dặt, nhất quyết không cho con phẫu thuật vì e ngại khả năng miễn dịch của trẻ giảm sút nhiều sau can thiệp. Cần hiểu rằng VA và amidan bị viêm nhiễm kéo dài và quá phát chẳng những không thể duy trì chức năng miễn dịch của mình mà còn dẫn tới nhiều rắc rối như: 
  • Viêm VA và amidan có thể lớn đến mức gây cản trở việc thở của trẻ, khiến trẻ phải thở miệng, ngủ ngáy và thậm chí ngừng thở khi ngủ. Thiếu oxy não thường xuyên sẽ ảnh hưởng không tốt tới sự phát triển thể chất và trí tuệ, khả năng học tập cũng như hành vi của trẻ. VA quá lớn cũng ảnh hưởng tới khứu giác và vị giác của các bé.
  •  VA phì đại có thể gây bít tắc vòi tai, dẫn tới nhiễm trùng tai, giảm thính lực và ảnh hưởng tới phát triển ngôn ngữ. 
  • VA phì đại có thể khiến dịch nhầy tích tụ trong các xoang hoặc gây viêm xoang tái phát. 
Ngoài ra, VA và amidan bị viêm thường xuyên sẽ là nơi trú ngụ của các vi khuẩn gây bệnh, từ đó chúng có thể tấn công các cơ quan khác như mũi họng, xoang, tai, thanh khí phế quản, tim, thận...
VA và amidan là 2 trong 6 thành phần của vòng bạch huyết Waldayer, không phải cơ quan duy nhất thực hiện chức năng sản sinh miễn dịch giúp cơ thể chống lại các bệnh nhiễm khuẩn hô hấp. Vì vẫn có tổ chức tương tự đảm đương cùng nhiệm vụ nên việc nạo VA hoặc cắt amidan không ảnh hưởng quá nhiều đến khả năng chống nhiễm trùng của trẻ. 

Tất nhiên nói như vậy không có nghĩa là mọi trường hợp viêm VA hay viêm amidan đều phải phẫu thuật cắt bỏ. Viêm VA và viêm Amidan không biến chứng ở trẻ em là quá trình có lợi cho cơ thể vì giúp hình thành miễn dịch, chúng chỉ trở thành bệnh lý khi tái phát thường xuyên hoặc có biến chứng, nhất là biến chứng viêm tai giữa.


Chỉ định và chống chỉ định 
  • Chỉ định nạo VA
Phẫu thuật nạo VA được Willhelm Meyer người Đan Mạch mô tả lần đầu tiên vào năm 1867. Tới đầu thập niên 1900, cắt amidan và nạo VA thường được thực hiện đồng thời vì hai cấu trúc này được coi là những ổ nhiễm trùng gây ra nhiều bệnh khác. Vào những thập niên 1930 và 1940, sự xuất hiện của kháng sinh đã giúp điều trị thành công nhiều trường hợp viêm VA và amidan. Kể từ đó, phẫu thuật nạo VA và cắt amidan không còn được áp dụng rộng rãi như trước nữa.  


Để tránh lạm dụng, quyết định nạo VA cần được thực hiện đúng quy trình, bởi các bác sĩ chuyên khoa tai mũi họng. Dựa trên kết quả thăm khám lâm sàng và nội soi, bác sĩ sẽ cân nhắc kỹ lưỡng trước khi chỉ định phẫu thuật. Ngay cả trường hợp trẻ có đầy đủ tiêu chí phẫu thuật, một số bác sĩ vẫn khuyên gia đình loại bỏ hoàn toàn sữa và các chế phẩm sữa (sữa tươi, sữa công thức, sữa chua, pho mát...) ra khỏi chế độ ăn của trẻ và theo dõi trong vòng ít nhất 1 tháng. Nếu tình trạng bệnh không thuyên giảm thì mới tiến hành can thiệp. Nhạy cảm với sữa được cho là nguyên nhân dẫn tới tình trạng ứ đọng, tắc nghẽn kéo dài ở vùng tai mũi họng.

Hình ảnh VA phì đại qua khám nội soi.  
Phẫu thuật nạo VA được chỉ định trong các trường hợp sau (không có giới hạn về tuổi):

- Viêm VA tái đi tái lại nhiều lần trong năm (≥ 5 lần/1năm).
- Viêm VA điều trị nội khoa không hết, kèm theo bé có các biến chứng như viêm mũi họng, viêm tai giữa, viêm xoang, viêm phế quản.. tái phát.  
- V.A quá phát gây bít tắc cửa mũi sau, khiến trẻ nghẹt mũi kéo dài, gây cản trở đường thở tự nhiên.
    • Chỉ định cắt amidan  
    - Viêm amiđan mạn tính, tái phát nhiều lần (trên 5 lần/năm)làm ảnh hưởng nhiều đến việc học tập, sức khỏe và chất lượng sống của bệnh nhi. Chỉ tính các đợt viêm amidan được bác sĩ chẩn đoán rõ ràng, không tính các đợt do người bệnh tự chẩn đoán.

    - Viêm amiđan gây biến chứng như viêm phế quản phổi, viêm cơ tim, viêm cầu thận, viêm khớp, ápxe quanh amiđan, viêm hạch cổ…
    - Amiđan phì đại gây tắc nghẽn, ngủ ngáy, ngưng thở khi ngủ hoặc gây khó nuốt, khó nói.


    Amidan phì đại.

      Chống chỉ định tuyệt đối: Có bệnh về máu, bệnh tim nặng, lao tiến triển. 
      Chống chỉ định tạm thời
    - Đang viêm nhiễm cấp vùng mũi họng.
    - Đang nhiễm virus cấp như: cúm, sởi, ho gà, sốt xuất huyết ...
    - Bệnh nhân cơ địa dị ứng, hen phế quản, hở hàm ếch.
    - Thời tiết quá nóng hoặc quá lạnh, đang có dịch đường hô hấp tại địa phương
    - Đang uống hay tiêm phòng dịch (chờ ít nhất 2 tuần sau uống vắc xin phòng bại liệt, 6 tháng sau tiêm phòng lao).

    Nguy cơ phẫu thuật

    Cũng như với bất kỳ ca phẫu thuật nào, nạo VA hay cắt amidan đi kèm một số nguy cơ: 
    • Chảy máu sau mổ: đây là biến chứng thường gặp. Nguy cơ này lớn nhất vào ngày đầu tiên sau mổ và lần thứ hai xuất hiện 5-7 ngày sau phẫu thuật,khi lớp vảy phủ vết thương vùng amidan bong ra. Trẻ được uống đủ nước và tuân thủ chế độ ăn mềm ít có khả năng gặp biến chứng này. Sau nạo VA máu thường chảy ít hơn so với sau cắt amidan. Một số trường hợp hợp chảy máu nhiều, phải nhét bấc mũi cầm máu, hiếm hơn có thể phải truyền máu nếu lượng máu mất rất lớn.  
    • Nhiễm trùng tại vị trí phẫu thuật. 
    • Bất kỳ cuộc gây mê nào cũng đi kèm nguy cơ, nhưng nguy cơ này là rất nhỏ ở trẻ khỏe mạnh. Trẻ có thể có phản ứng dị ứng hay rối loạn hô hấp liên quan tới gây mê. Cần báo cáo với bác sĩ nếu trẻ có dị ứng với bất kỳ loại thuốc nào.
    Biến chứng trong và sau mổ 


    Vì mỗi cá nhân có đáp ứng khác nhau với phẫu thuật, phản ứng với gây mê và lành thương của các trẻ cũng khác nhau nên rất khó dự đoán chắc chắn kết quả phẫu thuật và các biến chứng tiềm ẩn. Tiên lượng sau mổ cũng phụ thuộc cả vào tình trạng bệnh hiện có của mỗi trẻ.

    Những rắc rối sau đây đã được ghi nhận trong y văn. Mặc dù phần lớn các biến chứng này rất hiếm khi xảy ra nhưng chúng đã từng xảy ra tại một thời điểm nào đó, dưới bàn tay của những phẫu thuật viên kinh nghiệm, trong điều kiện chăm sóc y tế chuẩn mực. Vì vậy gia đình và bác sĩ cần cân nhắc kỹ để so sánh những nguy cơ tiềm ẩn với lợi ích của phẫu thuật trước khi đưa ra quyết định mổ. 
    • Rất hiếm khi, dụng cụ để banh miệng trong khi phẫu thuật có thể làm gãy răng, nhất là răng sữa. Đôi khi cũng có thể gây chấn thương môi hoặc lưỡi.
    • Amidan thường được cắt bằng dao điện, vì vậy đôi khi có xảy ra bỏng điện ở môi hay lưỡi.
    • Nhiễm trùng, mất nước, đau kéo dài và/hoặc liền thương chậm: bệnh nhân phải nhập viện lại dể truyền dịch và kiểm soát đau.
    • Chảy máu: Trong một số rất ít trường hợp, bệnh nhân chảy máu nhiều, phải truyền máu hay chế phẩm máu.
    • Sau nạo VA, một số trẻ bị thay đổi giọng vì có quá nhiều không khí thoát ra đằng mũi. Một số trẻ bị thoát đồ ăn lỏng hoặc đặc qua mũi khi ăn. Những thay đổi này thường là tạm thời. Nếu chúng tồn tại dai dẳng 4-6 tuần thì cần thông báo với bác sĩ. Một số trẻ có thể thay đổi giọng vĩnh viễn (hiếm gặp).
    • Mặc dù amidan không bao giờ mọc lại, VA có thể phát triển lại, nhất là ở trẻ nhỏ.
    • Kết quả không như ý: Trong một số trường hợp, sau phẫu thuật số đợt đau họng không hề giảm bớt, tình trạng viêm xoanh tái phát/chảy nước mũi không được cải thiện. 
    • Tình trạng tắc nghẽn đường thở, ngủ ngáy, ngừng thở khi ngủ hay thở miệng không được cải thiện.
    • Trong những trường hợp cực kỳ hiếm, thành sau mũi hoặc miệng bị đóng kín toàn bộ hay một phần do sẹo, phải phẫu thuật lại để sửa.

    BS Trần Thu Thủy (bv Nhi TW)