Thứ Sáu, 25 tháng 11, 2016

QUẢN LÝ TIÊU CHẢY - WHO

1.Định nghĩa:

       Tiêu chảy là tình trạng đi ngoài phân lỏng hoạc nước bất thường, thường ít nhất 3 lần/ 24h. Tuy nhiên, tính chất của phân thì quan trọng hơn là số lần đi ngoài. Đi ngoài thường xuyên với phân khuân thì không phải là tiêu chảy. Trẻ chỉ bú mẹ thường đi ngoài phân lỏng, sệt cũng không phải là đi ngoài. Các bà mẹ thường biết khi nào con của họ bị tiêu chảy và có thể cung cấp các định nghĩa hữu ích trong những trường hợp cụ thể.
2. Các typ lâm sàng của TCC:
       Nền tảng cho thực hành điều trị là dựa vào các typ bệnh lý, Nó có thể dễ dàng để xác định khi trẻ đến khám lần đầu. Các xét nghiệm thì không cần thiết. Bốn typ lâm sàng của TCC có thể được nhận ra, mỗi thể phản ánh bệnh lý nền tảng bên dưới và các sinh lý đã bị thay đổi.

  1. Tiêu chảy phân nước cấp tính (bao gồm Cholera), kéo dài vài giờ đến vài ngày: nguy hiểm chính là mất nước, giảm cân có thể cũng xuất hiện nếu không tiếp tục cho ăn.
  2. Tiêu chảy cấp phân có máu, nó còn được gọi là lỵ (dysentery): nguy hiểm chính là phá hủy niêm mạc ruột, nhiễm khuẩn và suy dinh dưỡng; các biến chứng khác, bao gồm mất nước cũng có thể xảy ra.
  3. Tiêu chảy dai dẳng (persistent diarrhoea), khi tiêu chảy kéo dài 14 ngày hoạc hơn: nguy hiểm chính là suy dinh dưỡng và các nhiễm khuẩn ngoài ruột nặng: mất nước cũng có thể xảy ra.
  4. Tiêu chảy với suy dinh dưỡng nặng (maramus hoạc kwashiorkor): nguy hiểm chính là nhiễm khuẩn hệ thống nặng, mất nước, suy tim, thiếu vitamin và khoáng chất.
     Quản lý mỗi dạng tiêu chảy nên ngăn ngừa hoạc điều trị các nguy hiểm chính mà mỗi dạng biểu hiện.

3. Quản lý tiêu chảy cấp (phân không có máu)
 Điểu trị tại nhà nhằm ngăn ngừa mất nước và suy dinh dưỡng ( 4 quy tắc vàng):

  1. Cho trẻ uống nhiều dịch hơn bình thường, để tránh mất nước
  2. Bổ sung zinc (10-20 mg) mỗi ngày trong 10-14 ngày cho trẻ
  3. Tiếp tục cho trẻ ăn, để tránh suy dinh dưỡng
  4. Cho trẻ đi khám ngay khi có các dấu hiệu của mất nước hoạc các vấn đề khác

4. Các thuốc kháng sinh:
     Ngoại trừ được liệt kê dưới đây, kháng sinh không nên dùng thường xuyên cho trẻ bị tiêu chảy. Nó không hiệu quả mà còn có thể nguy hiểm.
     Những bệnh mà kháng sinh nên dùng được liệt kê dưới đây ( Việc lựa chọn thuốc được trình bày trong phụ lục 7)

  1. Các ca tiêu chảy phân có máu (lỵ- dysentery). Tất cả nên được điều trị với kháng sinh hiệu quả với Shigella trong vùng (xem mục 6.1). Trẻ em bị lỵ không nên được điều trị thường xuyên cho amip. Hướng dẫn cho khi nào điều trị amip xem mục 6.2.
  2. Các ca nghi ngờ cholera với mất nước nặng. Nên được điều trị với 1 kháng sinh uống hiệu quả chống lại V.cholera 01 và 0139 trong vùng (xem mục 5.3).
  3. Các xét nghiệm đã chứng minh, nhiễm khuẩn hệ thống với Giardia duodenaliss). Nhiễm khuẩn với G. duodenalis xuất hiện rất thường xuyên và thường không có triệu chứng. Điều trị cho giadiasis nên chỉ định chỉ khi trẻ bị tiêu chảy dai dẳng và nang hoạc bào tử G.duodenalis được nhìn thấy trong phân hoạc dịch ruột non. Trẻ bị tiêu chảy cấp không nên điều trị giardiasis.
     Khi tiêu chảy liên quan với nhiễm khuẩn cấp ở cơ quan khác ( ví dụ, phổi, đường tiết niệu), nhiễm khuẩn đó cũng yêu cầu kháng sinh đặc hiệu.
5. Các thuốc chống đi ngoài:
     Các thuốc này, mặc dù được dùng rộng rãi, không có lợi ích lâm sàng và không bao giờ được chỉ định cho điều trị tiêu chảy cấp ở trẻ em. Một vài trong số chúng thì nguy hiểm. Các chế phẩm trong nhóm này gồm:

  1. Các chất bám hút (adsorbents) (ví dụ, kaolin, attapulgite, smectile, than hoạt, cholestyramine). Những thuốc này được quảng cáo cho điều trị tiêu chảy dựa vào nền tảng của khả năng gắn và làm bất hoạt độc tố vi khuẩn hoạc các chất khác mà gây tiêu chảy, và chúng cho là bảo vệ niêm mạc ruột. Tuy nhiên đã được chứng minh không có giá trị lâm sàng khi điều trị thông thường tiêu chảy cấp ở trẻ em.
  2. Các thuốc ức chế vận động (antimotility) ( ví dụ, loperamide, hydrochloride, diphenoxylate với atropin, tincture của opium, camphorated, paregorin, codeine). Các thuốc opiate hay giống opiate và các chất ức chế nhu động ruột khác có thể giảm số lần đi ngoài ở người lớn. Tuy nhiên, chúng không giảm rõ số lượng phân ở trẻ em. Hơn nữa, chúng có thể gây liệt ruột nặng nguy hiểm đến tính mạng, và chúng làm kéo dài thời gian nhiễm khuẩn do làm chậm sự đào thải vi sinh vật gây bệnh. Tác dụng an thần có thể xảy ra khi dùng thường xuyên và nhiễm độc hệ thần kinh trung ương nguy hiểm đã được báo cáo ở một số ca. Không thuốc nào trong nhóm này nên chỉ định cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ khi bị tiêu chảy.
  3. Bismuth subsalicylate làm giảm lượng phân và các phàn nàn chủ quan trong những người du lịch bị tiêu chảy. Khi chỉ định mỗi 4 giờ, nó được báo cáo giảm số lượng phân ở trẻ em bị tiêu chảy cấp khoảng 30%. Điều trị này hiếm khi thực tế.
  4. Các thuốc phối hợp. Nhiều sản phẩm phối hợp các thuốc adsorbents, antimicrobials, antimotility. Các nhà sản xuất có thể cho rằng các công thức này phù hợp cho nhiều loại tiêu chảy khác nhau; tuy nhiên, những phối hợp này thì không hợp lý và giá cả cũng như tác dụng phụ chắc chắn cao hơn so với thuốc đơn chất. Chúng không được dùng để điều trị tiêu chảy ở trẻ em.
6. Bổ sung zinc (10 - 20 mg) cho trẻ, mỗi ngày từ 10 - 14 ngày
     Zinc có thể bổ sung bằng dạng siro hay viên, bất cứ dạng nào có và hợp lý. Bằng bổ sung zinc ngay khi tiêu chảy bắt đầu, thời gian và độ nặng cũng như nguy cơ mất nước sẽ giảm. Bằng tiếp tục bổ sung zinc 10 - 14 ngày, lượng zinc mất trong quá trình tiêu chảy được hoàn lại đầy đủ và nguy cơ trẻ bị tái phát tiêu chảy trong 2 - 3 tháng sau giảm.
7. QUẢN LÝ TIÊU CHẢY CẤP KHI NGHI NGỜ CHOLERA:
       Cholera khác với tiêu chảy cấp do các nguyên nhân khác ở 3 điểm:

  • Xuất hiện trong dịch lớn liên quan cả trẻ em và người lớn.
  • Phân nước nhiều có thể xuất hiện, làm mất nước nặng nhanh và sốc 
  • với những ca mất nước nặng kháng sinh hợp lý có thể làm ngắn thời gian bệnh
*  Khi nào thì nghi ngờ Cholera
        Cholera nên được nghi ngờ khi trẻ hơn 5 tuổi hoạc người lớn tiến triển mất nước nặng do tiêu chảy cấp ( thường có nôn), hoạc bất kỳ bệnh nhân lớn hơn 2 tuổi bị tiêu chảy phân nước khi cholera được biết xuất hiện trong khu vực. Trẻ nhỏ hơn 2 tuổi cũng có thể mắc cholera, nhưng thường khó để phân biệt với các nguyên nhân khác gây tiêu chảy cấp phân nước, đặc biệt là rotavirus.
8. QUẢN LÝ TIÊU CHẢY PHÂN CÓ MÁU:

1 nhận xét:

  1. Nguồn: http://apps.who.int/iris/bitstream/handle/10665/43209/9241593180.pdf;jsessionid=5FCAEE912F30988A729A7AE79D7660E2?sequence=1

    Trả lờiXóa