Khoảng 3/4 các ca xảy thai tự phát (spontaneous abortions) xuất hiện trước 16 tuần, trong số đó, 3/4 trước 8 tuần. Và tỉ lệ chung khoảng 20% trong số các phụ nữ đã được chẩn đoán có thai bị xảy.
Hơn 60% xảy thai tự phát do sai sót nhiễm sắc thể vì các yếu tố của người bố hoạc người mẹ; khoảng 15% liên quan đến chấn thương, nhiễm khuẩn, chế độ ăn không đầy đủ, bệnh đái tháo đường, nhược giáp, hội chứng kháng thể lupus anticoagulant-anticardiolipin-antiphospholipid, hoạc dị dạng giải phẫu,... của người mẹ.
Không có bằng chứng tin cậy nào chỉ ra rằng xảy thai có thể gây ra bởi kích thích tinh thần như: hoảng sợ, bực tức, đau buồn, lo lắng, quá mức. Khoảng 1/4 các ca, nguyên nhân xảy thai không xác định được. Không có bằng chứng nào chỉ ra rằng tiếp xúc với các sóng vô tuyến hay trường điện từ làm tăng nguy cơ xảy thai.
Cần phân biệt giữa những phụ nữ với tiền sử yếu cổ tử cung (incompetent cervix) với những phụ nữ xảy thai sớm. Về nét đặc trưng, incompetent cervix biểu hiện như dãn cổ tử cung im lặng ( ví dụ, với mức co thắt tử cung rất ít) trong tam cá nguyệt 2. Những phụ nữ với incompetent cervix thường biểu hiện với dãn đáng kể cổ tử cung ( 2cm hoạc hơn) và rất ít triệu chứng. Khi cổ tử cung đạt 4cm hay lớn hơn, kích thích tử cung co thắt hoạc gây vỡ màng ối thứ phát do giãn cổ tử cung nhiều. Điều đó không làm thay đổi chẩn đoán ban đầu. Các yếu tố dẫn đến incompetent cervix như một tiền sử của incompetent cervix với lần mang thai trước, phẫu thuật cổ tử cung, tổn thương cổ tử cung, tiếp xúc diethylstilbestrol (DES), và bất thường giải phẫu cổ tử cung. Trước hoạc trong ba tháng đầu, không có phương pháp nào để xác định liệu rằng cổ tử cung sẽ yếu. Sau 14-16 tuần, siêu âm có thể dùng để đánh giá giải phẫu bên trong của phần thấp tử cung và cổ tử cung về bất thường hinh phễu hoạc ngắn phù hợp với incompetent cervix.
TRIỆU CHỨNG
A. Các triệu chứng và dấu hiệu:
1. Threatened abortion (dọa xảy thai)
Xuất hiện chảy máu hoạc đau bụng, nhưng thai kì vẫn tiếp tục. Cổ tử cung không dãn.
2. Inevitable abortion ( sảy thai không tránh được):
Cổ tử cung giãn, màng ối có thể đã vỡ, nhưng các sảm phẩm của thụ thai chưa chảy ra. Đau bụng và chảy máu dai dẳng, và sự chảy ra của các sảm phẩm thu thai xem như chắc chắn xảy ra.
3. Complete abortion (sảy thai hoàn toàn):
Các sản phẩm của thụ thai đã bị tống ra hoàn toàn. Bớt đau, nhưng chảy máu nhẹ có thể dai dẳng.
Ống cổ tử cung đã đóng.
4. Incomplete abortion ( sảy thai không hoàn toàn):
Cổ tử cung đã giãn. Vài phần sản phẩm của thụ thai (thường là nhau) còn trong tử cung). Chỉ đau nhẹ, nhưng chảy máu thì dai dẳng và thường nặng.
5. Missed abortion ( thai lưu):
Thai kì đã ngừng phát triển, nhưng cái thai chưa bị đào thải. Các triệu chứng mang thai biến mất. Có thể có dịch âm đạo nâu nhưng không kích thích chảy máu. Đau không phát triển. Cổ tử cung nửa chắc và mở nhẹ; tử cung trở nên nhỏ hơn và mềm bất thường; màng phụ bình thường.
B. Xét nghiệm:
Các tét mang thai thấp hoạc giảm nồng đọ hCG. Công thức máu nên được thực hiệ nếu chảy máu nhiểu. Xác định mẫu Rh, và globulin miễn dịch Rho(D) nếu Rh-âm tính. Tất cả các mô lấy lại nên được đánh giá bởi nhà bệnh học và có thể gửi làm phân tích gene với một số trường hợp.
C. Siêu âm:
Túi thai có thể xác định được vào 5-6 tuần từ chu kì kinh cuối, phôi lúc 6 tuần, và tim thai lúc 6-7 tuần bằng siêu âm ngả âm đạo. Thao dõi định kì thường yêu cầu để đánh giá thay đổi kích thước của phôi. Túi thai nhỏ, không đều không có phôi phù hợp với đúng thời gian là chẩn đoán của một thai kì bất thường.
CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT
Cháy máu do xảy thai với thai trong tử cung cần phân biệt với những chảy máu bất thường của thai ngoài tử cung và chảy máu không rụng trứng ở một phụ nữ không có thai. Chảy máu lẫn lông nhung phù gợi ý chửa trứng.
ĐIỀU TRỊ:
A. Biện pháp chung:
1. Dọa xảy:
Bệnh nhân nên nghỉ ngơi tại giường 24h-48h hạn chể dần các hoạt động hàng ngày, kiêng giao hợp và thụt rửa. Điều trị bằng hormon là chống chỉ định. Khánh sinh chỉ nên dùng khi có biểu hiện nhiễm khuẩn.
2. Thai lưu:
Tên gọi này hướng tới số phận của cái thai và chọn cách kết thúc cũng như thời gian kết thúc thai kì bởi bệnh nhân và bác sỹ. Có thể dùng thuốc hoạc thủ thuật, mỗi phương pháp có nguy cơ và lợi ích riêng. Gây kết thúc thai kì trong 3 tháng đầu bằng prostaglandins (ví dụ misoprostol đặt âm đạo hoạc uống liều 200-800 mcg) kết hợp với một kháng progesteron (ví dụ : mifepristone 600mg uống) thì an toàn, hiệu quả, ít can thiệp, và riêng tư hơn can thiệp thủ thuật.; tuy nhiên, nếu không thành công hoạc nếu chảy máu nặng, can thiệp thủ thuật (nong và nạo) có thể cần đến. Bệnh nhân phải được tư vấn về các lựa chọn khác.
B. Biện pháp phẫu thuật:
1. Sảy thai không hoàn toàn hoạc sảy thai không tránh được:
Lấy bỏ ngay lập tức bất kì sản phẩm nào của thai còn trong buồng tử cung để chấm dứt chảy máu và dự phòng nhiễm khuẩn. Giảm đau và gây tê cổ tử cung, sau đó thăm tử cung với dụng cụ kẹp trứng hoạc hút buồng tử cung. Có thể cần gây tê tại chỗ.
2. Khâu cổ tử cung và hạn chế vận động:
Khâu cổ tử cung là một phương pháp điều trị incompetent cervix, nhưng phải xác định được thai sống trong tử cung trước khi làm phẫu thuật.
Không có bằng chứng tin cậy nào chỉ ra rằng xảy thai có thể gây ra bởi kích thích tinh thần như: hoảng sợ, bực tức, đau buồn, lo lắng, quá mức. Khoảng 1/4 các ca, nguyên nhân xảy thai không xác định được. Không có bằng chứng nào chỉ ra rằng tiếp xúc với các sóng vô tuyến hay trường điện từ làm tăng nguy cơ xảy thai.
Cần phân biệt giữa những phụ nữ với tiền sử yếu cổ tử cung (incompetent cervix) với những phụ nữ xảy thai sớm. Về nét đặc trưng, incompetent cervix biểu hiện như dãn cổ tử cung im lặng ( ví dụ, với mức co thắt tử cung rất ít) trong tam cá nguyệt 2. Những phụ nữ với incompetent cervix thường biểu hiện với dãn đáng kể cổ tử cung ( 2cm hoạc hơn) và rất ít triệu chứng. Khi cổ tử cung đạt 4cm hay lớn hơn, kích thích tử cung co thắt hoạc gây vỡ màng ối thứ phát do giãn cổ tử cung nhiều. Điều đó không làm thay đổi chẩn đoán ban đầu. Các yếu tố dẫn đến incompetent cervix như một tiền sử của incompetent cervix với lần mang thai trước, phẫu thuật cổ tử cung, tổn thương cổ tử cung, tiếp xúc diethylstilbestrol (DES), và bất thường giải phẫu cổ tử cung. Trước hoạc trong ba tháng đầu, không có phương pháp nào để xác định liệu rằng cổ tử cung sẽ yếu. Sau 14-16 tuần, siêu âm có thể dùng để đánh giá giải phẫu bên trong của phần thấp tử cung và cổ tử cung về bất thường hinh phễu hoạc ngắn phù hợp với incompetent cervix.
TRIỆU CHỨNG
A. Các triệu chứng và dấu hiệu:
1. Threatened abortion (dọa xảy thai)
Xuất hiện chảy máu hoạc đau bụng, nhưng thai kì vẫn tiếp tục. Cổ tử cung không dãn.
2. Inevitable abortion ( sảy thai không tránh được):
Cổ tử cung giãn, màng ối có thể đã vỡ, nhưng các sảm phẩm của thụ thai chưa chảy ra. Đau bụng và chảy máu dai dẳng, và sự chảy ra của các sảm phẩm thu thai xem như chắc chắn xảy ra.
3. Complete abortion (sảy thai hoàn toàn):
Các sản phẩm của thụ thai đã bị tống ra hoàn toàn. Bớt đau, nhưng chảy máu nhẹ có thể dai dẳng.
Ống cổ tử cung đã đóng.
4. Incomplete abortion ( sảy thai không hoàn toàn):
Cổ tử cung đã giãn. Vài phần sản phẩm của thụ thai (thường là nhau) còn trong tử cung). Chỉ đau nhẹ, nhưng chảy máu thì dai dẳng và thường nặng.
5. Missed abortion ( thai lưu):
Thai kì đã ngừng phát triển, nhưng cái thai chưa bị đào thải. Các triệu chứng mang thai biến mất. Có thể có dịch âm đạo nâu nhưng không kích thích chảy máu. Đau không phát triển. Cổ tử cung nửa chắc và mở nhẹ; tử cung trở nên nhỏ hơn và mềm bất thường; màng phụ bình thường.
B. Xét nghiệm:
Các tét mang thai thấp hoạc giảm nồng đọ hCG. Công thức máu nên được thực hiệ nếu chảy máu nhiểu. Xác định mẫu Rh, và globulin miễn dịch Rho(D) nếu Rh-âm tính. Tất cả các mô lấy lại nên được đánh giá bởi nhà bệnh học và có thể gửi làm phân tích gene với một số trường hợp.
C. Siêu âm:
Túi thai có thể xác định được vào 5-6 tuần từ chu kì kinh cuối, phôi lúc 6 tuần, và tim thai lúc 6-7 tuần bằng siêu âm ngả âm đạo. Thao dõi định kì thường yêu cầu để đánh giá thay đổi kích thước của phôi. Túi thai nhỏ, không đều không có phôi phù hợp với đúng thời gian là chẩn đoán của một thai kì bất thường.
CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT
Cháy máu do xảy thai với thai trong tử cung cần phân biệt với những chảy máu bất thường của thai ngoài tử cung và chảy máu không rụng trứng ở một phụ nữ không có thai. Chảy máu lẫn lông nhung phù gợi ý chửa trứng.
ĐIỀU TRỊ:
A. Biện pháp chung:
1. Dọa xảy:
Bệnh nhân nên nghỉ ngơi tại giường 24h-48h hạn chể dần các hoạt động hàng ngày, kiêng giao hợp và thụt rửa. Điều trị bằng hormon là chống chỉ định. Khánh sinh chỉ nên dùng khi có biểu hiện nhiễm khuẩn.
2. Thai lưu:
Tên gọi này hướng tới số phận của cái thai và chọn cách kết thúc cũng như thời gian kết thúc thai kì bởi bệnh nhân và bác sỹ. Có thể dùng thuốc hoạc thủ thuật, mỗi phương pháp có nguy cơ và lợi ích riêng. Gây kết thúc thai kì trong 3 tháng đầu bằng prostaglandins (ví dụ misoprostol đặt âm đạo hoạc uống liều 200-800 mcg) kết hợp với một kháng progesteron (ví dụ : mifepristone 600mg uống) thì an toàn, hiệu quả, ít can thiệp, và riêng tư hơn can thiệp thủ thuật.; tuy nhiên, nếu không thành công hoạc nếu chảy máu nặng, can thiệp thủ thuật (nong và nạo) có thể cần đến. Bệnh nhân phải được tư vấn về các lựa chọn khác.
B. Biện pháp phẫu thuật:
1. Sảy thai không hoàn toàn hoạc sảy thai không tránh được:
Lấy bỏ ngay lập tức bất kì sản phẩm nào của thai còn trong buồng tử cung để chấm dứt chảy máu và dự phòng nhiễm khuẩn. Giảm đau và gây tê cổ tử cung, sau đó thăm tử cung với dụng cụ kẹp trứng hoạc hút buồng tử cung. Có thể cần gây tê tại chỗ.
2. Khâu cổ tử cung và hạn chế vận động:
Khâu cổ tử cung là một phương pháp điều trị incompetent cervix, nhưng phải xác định được thai sống trong tử cung trước khi làm phẫu thuật.