Thứ Ba, 30 tháng 8, 2016

NGĂN NGỪA HOẠC LÀM CHẬM BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYP2

Các khuyến cáo:
  1. Bệnh nhân với tiền ĐTĐ nên được chỉ dẫn một chế độ ăn chặt chẽ và chương trình hoạt động thể lực có tư vấn bám sát chương trình ngăn ngừa tiểu đường (Diabetes Prevention Program-DPP), mục tiêu giảm 7% cân nặng và nên tăng hoạt động thể lực cường độ trung bình (như là đi bộ nhanh) khoảng ít nhất 150 phút/tuần. A
  2. Theo sát tư vấn và duy trì các chương trình nên được đề nghị cho thành công dài hạn trong ngăn ngừa tiểu đường. B
  3. Liệu pháp Metformin  cho ngừa ĐTĐ typ2 nên cân nhắc với người tiền ĐTĐ, đặc biệt người có BMI >35 kg/m² , những người <60 tuổi, và phụ nữ ĐTĐ thai kì trước đó. A
  4. Ít nhất kiểm soát hàng năm về sự phát triển của tiểu đường với người tiền tiểu đường.
  5. Sàng lọc và điều trị các yếu tố nguy cơ có thể thay đối của bệnh tim mạch. B
  6. Giáo dục tự quản lí tiểu đường và khuyến khích các chương trình thích hợp, phát triển và duy trì hành vi mà có thể ngăn ngừa hoạc làm chậm mắc phải ĐTĐ. B
  7. Các công cụ công nghệ hỗ trợ bao gồm mạng lưới xã hội internet, giáo dục từ xa, DVD, phần mềm điện thoại có thể là yếu tố hữu ích của hiểu quả thay đổi lối sống ngăn ngừa tiểu đường. B
Can thiệp bằng thuốc:
      Các thuốc như metformin,  ức chế alpha-glucosidase, orlistat, và thiazolidiniones, mỗi loại cho thấy giảm tỉ lệ ĐTĐ ở các mức độ khác nhau. Metformin có bằng chứng mạnh nhất và chứng minh an toàn dài hạn khi ngăn ngừa ĐTĐ. Với các thuốc khác, giá cả, tác dụng không mong muốn, là hiệu quả lâu bền cần được cân nhắc.
      Metformin ít hiệu quả hơn thay đổi lối sống trong DPP  và DPPOS nhưng có thể tiết kiệm qua chu kì 10 năm. Nó hiệu quả ngang bằng thay đổi lối sống ở những người có BMI>35 kg/m² nhưng không tốt hơn đáng kể giả dược với những người >60 tuổi. 
      Trong DPP, cho những phụ nữ có tiền sử ĐTĐ thai kì, Metformin và thay đôỉ lối sống mạnh mẽ làm giảm tương đương 50% nguy cơ bị tiểu đường.
       Metformin có thể được khuyến cáo cho người có nguy cơ cao (như: tiền sử ĐTĐ thai kì, rất béo, và/hoạc nặng hơn hoạc tăng đường máu tiến triển) hoạc những người với A1C tăng mặc dù đã can thiệp lối sống.


Thứ Sáu, 26 tháng 8, 2016

QUẢN LÝ VIÊM HỌNG DO LIÊN CẦU BETA TAN HUYẾT NHÓM A

1. TỔNG QUAN:

      Vi khuẩn chịu trách nhiệm trong khoảng 5 tới 10% của các ca viêm họng, với liên cầu beta tan huyết nhóm A là nguyên nhân vi khuẩn hay gặp nhất. Một test nhanh phát hiện kháng nguyên dương tính có thể xem là bằng chứng chắc chắn cho điều trị; một test nhanh âm tính nên được theo sau bởi cấy họng để phát hiện khi mà viêm họng do liên cầu (streptococcal pharyngitis) bị nghi ngờ nhiều. Mục tiêu điều trị bao gồm ngăn ngừa các biến chứng mưng mủ (suppurative) và không mưng mủ (nonsupurative), làm dịu dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng, giảm lây lan vi khuẩn và tối thiểu hóa tác dụng phụ của kháng sinh. Penicillin uống còn là lựa chọn trong hầu hết các trường hợp, mặc dù các cephalosporin đắt hơn, và có lẽ amoxicillin-clavulanate potassium ưu việt hơn trong điều trị. Các điều trị thay thế phải dùng dựa trên bệnh nhân với dị ứng penicillin, tuân thủ dùng thuốc hoạc điều trị thất bại với penicillin. Những bệnh nhân mà không đáp úng cho điều trị khởi đầu nên dùng một loại kháng sinh không bị bất hoạt bởi vi khuẩn tiết penicillinase (vd: amoxicillin-clavulanate potassium, cephalosporin hoạc macrolide). Giáo dục bệnh nhân giúp giảm tỉ lệ tái phát.
2. BIỂU HIỆN LÂM SÀNG:
      Trường hợp điển hình của viêm họng do liên cầu beta tan huyết nhóm A là bệnh cấp tính với đau họng trội hơn hẳn và nhiệt độ lớn hơn 38.5°C (101.3°F). Các triệu chứng thể chất bao gồm sốt và ớn lạnh, đau cơ, đau đầu và nôn. Khám có thể thấy các đốm xuất huyết ở vòm miệng, hầu, và amydal đỏ và tiết dịch, và sưng hạch cổ trước. Tuy nhiên, không có triệu chứng điển hình. Ví dụ như trẻ em, có thể biểu hiện với đau bụng hoạc nôn.
      Những bệnh nhân với các phàn nàn về hô hấp khác như ho, sổ mũi, thường ít khi do liên cầu beta tan huyết nhóm A. Có ban như giấy nhám trên thân, mà thường có đường ở háng hoạc mông (Pastia's lines) thì phù hợp hơn với scarlet fever (ban hồng do liên cầu beta tan huyết nhóm A)
3. MỤC TIÊU ĐIỀU TRỊ:
      Các mục tiêu điều trị gồm quản lí các biến chứng mưng mủ và không mưng mủ sau:
* Biến chứng không mưng mủ (nonsuppurative complications)
+ Thấp khớp
+Viêm cầu thận sau nhiễm liên cầu khuẩn
* Các biến chứng mưng mủ (suppurative complications)
+ Viêm hạch lympho vùng cổ
+ Viêm xoang
+ Viêm xương chũm
+ Viêm tai giữa
+ Viêm màng não
+ Viêm nội tâm mạc
+ Viêm phổi
4. LIỆU PHÁP KHÁNG SINH:
     Nhiều yếu tố nên được cân nhắc khi lựa chọn kháng sinh để điều trị streptococal pharyngitis: tình trạng dị ứng kháng sinh, vấn đề tuân thủ dùng thuốc, tần suất đến khám, tính dễ chịu, giá cả, phổ kháng khuẩn, tác dụng phụ tiềm tàng.
4.1. Penicillin:
    Gần 5 thập kỉ, penicillin đã là thuốc để lựa chọn cho điều trị streptococcal pharyngitis . Kháng sinh này đã chứng minh hiệu quả và an toàn, với phổ kháng khuẩn hẹp và giá thành thấp.
4.2. Các kháng sinh thay thế:
* Amoxicillin:
     Ở trẻ em, tỉ lệ điều trị khỏi với amoxicillin uống 1 lần/ngày trong 10 ngày thì tương tự với Penicillin V. Sự hấp thụ của thuốc không phụ thuộc bởi tiêu hóa của thức ăn, và thời gian bán thải thì dài hơn penicillin V ở trẻ em.
* Macrolides:
      Erythromycin là thuốc được khuyến cáo hàng đầu để thay thế cho bệnh nhân dị ứng penicillin. Vì erythromycin estolate thì gây độc cho gan ở người lớn, nên erythromycin ethylsuccinate có thể dùng. Erythromycin hấp thu tốt hơn thi dùng cùng thức ăn. Mặc dù nó thì hiệu quả ngang penicillin, 15-20% bệnh nhân không thể dung nạp thuốc do tác dụng phụ trên dạ dày ruột.
      Phổ rộng của azithromycin (Zithromax) cho phép uống 1 lần/ngày và thời gian điều trị ngắn. FDA chấp thuận 5 ngày azithromycin như là thuốc hàng thứ hai trong điều trị streptococcal pharyngitis. Azithromycin có tác dụng phụ trên dạ dày ruột thấp, thời gian điều trị 3-4 ngày thì hiệu quả như 10 ngày dùng penicillin V. Tuy nhiên, giá thành đắt, và hiệu quả trong ngăn ngừa thấp khớp cấp thì không biết.
* Cephalosporins:
      Điều trị 10 ngày với một cephalosporin cho thấy ưu việt hơn penicillin trong diệt liên cầu beta tan huyết nhóm A. Phân tích sau 19 thử nghiệm đối chiếu cho thấy tỉ lệ điều trị khỏi tổng cộng của cephalosporins là 92%, so với 84% của penicillin (P<0.0001).
     Cephalosporins có phổ kháng khuẩn rộng hơn penicillin V. Không giống penicillin, cephalosporin thì đề kháng với beta-lactamase do vi sinh vật tiết ra. Thế hệ đầu tiên của cephalosporin như cefa-droxil và cephalexin thì đc ưa dùng hơn thế hệ thứ hai và thứ 3, bởi vì nó có phổ kháng khuân hẹp hơn.
    Do khả năng phản ứng chéo, nên bệnh nhân có nhạy cảm tức thì với penicillin không nên được điều trị với một cephalosporin. Cephalosporin cũng đắt. Do đó, những thuốc này thường đc dành cho bệnh nhân với bị lại hoạc tái phát streptococcal pharyngitis .
* Amoxicillin-Clavulanate:
     Thường dùng để điều trị streptococcal pharyngitis tái phát. Tác dụng không mong muốn chính của nó là đi ngoài. Và thuốc thì đắt.
5. THẤT BẠI ĐIỀU TRỊ VÀ TÁI NHIỄM:
     Trong vài ngày sau khi kết thúc kháng sinh, một lượng nhỏ bệnh nhân tái lại các triệu chứng của viêm họng cấp, với nhiễm khuẩn được xác định bởi các test cận lâm sàng. Những bệnh nhân này, hoạc bị tái phát, hoạc tái nhiễm. Các giả thuyết thất bại gồm: không tuân thủ điều trị, tái phơi nhiễm,vi khuẩn tiết beta-lactamase, sự ức chế của hệ miễn dịch với kháng sinh, và kháng penicillin.
Không phải tất cả mọi điều trị thất bại nên được quản lí giống nhau. Trên một bệnh nhân tái phát, nên tìm xem trong gia đình bệnh nhân có người mang mầm bệnh không triệu chứng không, nếu có phải điều trị. Bệnh nhân không tuân thủ với liệu trình 10 ngày penicillin nên đề nghị một liệu pháp thay thế, như là tiêm bắp penicillin hoạc macrolide hay cephalosporin một lần/ngày. Bệnh nhân thất bại lâm sàng nên được điều trị bằng một kháng sinh không bị bất hoạt bởi sinh vật tiết beta-lactamase. Amoxicillin-clavulanate potassium, cephalosporins và macrolides đc sử dụng ở những trường hợp này.

Nguồn:   http://www.aafp.org/afp/2001/0415/p1557.html#abstract

Sơ đồ hướng dẫn thực hành lâm sàng:


Chủ Nhật, 21 tháng 8, 2016

TĂNG CÁC CHỈ SỐ XÉT NGHIỆM CHỨC NĂNG GAN Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2

   Liver function tests (LFTs - các xét nghiệm chức năng gan) thì thường được dùng trong lâm sàng để sàng lọc bệnh gan, kiểm soát sự tiến triển của bệnh đã biết, và kiểm soát ảnh hưởng của các thuốc nguy cơ gay độc cho gan.
    Hay được sử dụng nhất gồm: aminotransferases, alkaline phosphatase, bilirubin, và thời gian prothrombin. Aminitransferases như alaline aminotransferases (ALT hay GPT) và aspartate aminotransferases (AST hay GOT), đo nồng độ của các men trong tế bào gan rò vào trong máu và như một chất chỉ thị cho tổn thương tế bào gan. Alkaline phosphatase (AP), gama-glutamyl transpeptidase (GGT), và bilirubin như các chất chỉ thị cho chức năng mật và chứng ứ mật. Albumin và prothrombin phản ánh chức năng tổng hợp của gan.
     AST và ALT bình thường <30-40 units/l. Tăng trên 8 lần của giới hạn trên phản ánh tình trạng viêm gan virus cấp, viêm gan thiếu máu cục bộ (ischemic hapatitis), hay thuốc hoạc toxin gây tổn thương gan. Tuy nhiên, thường gặp hơn bệnh nhân với viêm gan virus cấp, là những bệnh nhân vời tăng trung bình mạn tính aminotransferases, hay AST và ALT <250 units/l hơn 6 tháng. Tăng trung bình mạn tính các transaminrases thường gặp ở bệnh nhân đái tháo đường typ2 (ĐTĐ typ 2). Bài này sẽ xem lại về sinh lý bệnh, tỉ lệ mắc, nguyên nhân, và liệu pháp dùng thuốc liên quan ĐTĐ typ 2 với tăng LFTs.

1. CÁC GIẢ THUYẾT ĐẰNG SAU SỰ TĂNG LFTs Ở BỆNH NHÂN ĐTĐ TYP 2:
     Gan giúp duy trì nồng độ glucose bình thường trong máu ở cả lúc đói và sau ăn. Mất ảnh hưởng tác dụng của insulin trên gan dẫn đến sự phân hủy glycogen, tăng sản xuất glucose ở gan. Bất thường dự trữ triglicerid và phân hủy lipid trong các mô nhạy cảm insulin như gan là sự biểu lộ sớm của các tình trạng đặc trưng bởi sự kháng insulin và có thế phát hiện sớm hơn tăng đường máu lúc đói. Các yếu tố di truyền, môi trường, và chuyển hóa cùng sự nối tiếp của các sự kiện dẫn tới kháng insulin, tuy nhiên, vần chưa hiểu biết hết.
     Trong các mẫu động vật, tăng mạn tính insulin máu đã được tìm thấy dẫn đến gan kháng tương đối insulin. Điều này đặc trưng bởi sự suy của insulin để báo hiệu tăng receptor insulin substrate-2. Sư điều hòa tăng của điều hòa sterol yếu tố gắn protein 1c  (stetol regulatory element-binding protein 1c [SREBP-1c]) cũng xuất hiện, dẫn đến tăng tổng hợp lipid. Mặc dù sự điều hòa giảm của thụ cảm thể insulin subtrate-2 trung gian ra hiệu con đường kháng insulin, sự điều hòa tăng cua SREBP-1c và sau đó một lần nữa kích thích tổng hợp lipid trong gan làm tăng triglicerid trong tế bào gan, đẩy nhanh gan nhiễm mỡ. Điều đó cũng tăng tổng hợp và bài tiết VLDL. Do đó, tăng insulin máu có thể trực tiếp dẫn đến gan kháng insulin liên quan với thay đổi mỡ. Sự tăng quá mức của acid béo tự do đã được tìm thấy trong tình trạng kháng insulin và biết trực tiếp gây độc tế bào gan. Các cơ chế giả định bao gồm phá hủy màng tế bào khi nồng độ cao, rối loạn chức năng ti thể, hình thành độc tố toxin, và sự kích hoạt và ức chế các bước chìa khóa trong điều hòa chuyển hóa. Sự giải thích khác cho tăng transaminases trong tình trạng kháng insulin bao gồm, stress chất oxy hóa từ ảnh hưởng của lipid peroxidation, peroxysomal beta-oxidation, và tuyển mộ tế bào viêm. Tăng đề kháng insulin còn đặc trưng bởi tăng các cytokines tiền viêm như yếu tố hoại tử mô TNF-alpha, có thể góp phần làm tổn thương tế bào gan. Trong các nghiên cứu mở đầu, tăng tần xuất của polymorphism TNF-alpha-promoter đặc hiệu đã được tìm thấy trong các bệnh nhân gan nhiễm mỡ không do rượu (NASH), đề xuất có thể liên quan di truyền hoạc thiên về gan nhiễm mỡ thấy ở tình trạng kháng insulin.
Các giả thuyết nêu trên tất cả đóng góp tăng transaminates do trực tiếp tổn thương tế bào gan. Cũng có giả thuyết rằng tăng ALT, một enzym tổng hợp glucose sự sao chép gene của nó bị chặn bởi insulin, có thể chỉ ra một sự suy yếu trong insulin tín hiệu hơn là tổn thương tế bào gan đơn thuần

2. VIÊM GAN VIRUS C VÀ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYP2:
     Viêm gan virus C (HCV), nguyên nhân hàng đầu của bệnh gan tại Mỹ, là một yếu tố dự báo độc lập của ĐTĐ typ2. bệnh nội tiết hay gặp nhất thậm chí ở bệnh nhân không xơ gan. Bệnh nhân ĐTĐ typ2 có tỉ lệ mắc HCV cao hơn. Khi so sánh 176 bệnh nhân ĐTĐ typ2 với 6172 người hiến màu tương ứng cho các yếu tố nguy cơ cao đã được thừa nhận của nhiễm HCV, có tỉ lệ cao hơn của nhiễm HCV với những bệnh nhân ĐTĐ (11.5 vs 2.5%, P<0.001). Những bệnh nhân ĐTĐ nhiễm HCV, 72.3% có tăng bất thường LFTs, so sánh với 27.7% của những bệnh nhân ĐTĐ không có bằng chứng nhiễm HCV (P<0.001). Điều này đề xuất rằng bất kì bệnh nhân ĐTĐ nào có tăng LFTs cần sàng lọc HCV.

 3. STATINS CHO BỆNH NHÂN ĐTĐ TYP2 VỚI TĂNG TRANSAMINASES :
     Trong nghiên cứu bảo vệ tim (Heart protection Study) của 20,536 bệnh nhân nguy cơ cao với bệnh lý tim mạch, bao gồm những người có ĐTĐ, tỉ lệ tăng ALT lớn hơn 2 lần giá trị giới hạn bình thường trên là 1.8% trong nhóm simvastatin và 1.6% trong nhóm giả dược, Đây là một sự khác nhau không đáng kể. Trong nhóm thử nghiệm pravastatin trong những người cao tuổi có nguy cơ bệnh tim mạch (PROSPER), chỉ có 1 bệnh nhân trong nhóm Pravastatin và 1 bệnh nhân trong nhóm giả dược có tăng ALT hoạc AST trên 3 lần giới hạn bình thường cao. Không bệnh nhân nào bị tiêu cơ vân (rhabdomyolysis). 36 bệnh nhân trong nhóm Pravastatin có đau cơ, so sánh với 32 bệnh nhân trong nhóm giả dược.
     Liệu pháp liều cao statin liên quan vời tăng tần xuất bất thường LFTs, mặc dù nói chung vẫn còn tương đối hiếm xảy ra. Trong thử nghiệm điều trị tới các mục tiêu mới , những bệnh nhân với bệnh tim mạch lâm sàng ngẫu nhiên dùng 10 hay 80 mg atorvastatin. Tỉ lệ mắc tăng ALT, AST, hoạc cả hai dai dẳng (được định nghĩa khi hai lần đo liên tiếp thu được cách nhau 4-10 ngày mà tăng lớn hơn 3 lần giá trị bình thường cao) tương ứng là  0.2 và 1.2%, (P<0.001).
    Do những nghiên cứu lớn trên, những khuyến cáo hiện tại từ the American College of Physicians đế xuất rằng những bệnh nhân ĐTĐ typ2 với các yếu tố nguy cơ tim mạch khác nên uống một loại statin để ngăn ngừa nguyên phát các biến chứng mạch máu lớn. Những bệnh nhân này không cần theo dõi định kỳ LFTs khi dùng statin trừ khi có nền bất thường LFTs, bệnh cơ, hoạc uống các thuốc khác mà có thể tăng nguy cơ tác dụng phụ.
    Với những bệnh nhân ĐTĐ với nền transaminases <3 lần giới hạn bình thường cao, không có chống chỉ định để bắt đầu, tiếp tục, hoạc tăng liệu pháp statin miễn là những bệnh nhân này được kiểm soát cẩn thận. Tần xuất kiểm soát ở những bệnh nhân này còn đang tranh luận. Cũng có tranh luận có hay không tăng transaminase trong liệu pháp statin thậm chí cấu thành đúng nhiễm độc gan. Với bệnh nhân >40 tuổi, và chắc chắn có nhiều yếu tố nguy cơ hoạc đã có bệnh lý tim mạch, nguy cơ tiềm tàng của liệu pháp statin từ viễn cảnh của nhiễm độc gan bị vượt xa bởi lợi ích đã được chứng minh giảm nguy cơ bệnh lý tim mạch.

5. KẾT LUẬN:
     Những bệnh nhân ĐTĐ typ2 có tỉ lệ mắc LFTs bất thường cao hơn so với người không bị ĐTĐ typ 2, bất thường hay gặp nhất là tăng ALT. Bất kì bệnh nhân ĐTĐ mà xét nghiệm có tăng mạn tính nhẹ ALT, hay tăng ALT nhỏ hơn hoạc bằng 250 units/l lớn hơn 6 tháng nên sàng lọc các nguyên nhân có thể điều trị của bệnh gan mạn tính, đặc biệt là viêm gan B, viêm gan C, hemochromatosis (bệnh thừa sắt), mà đã thấy tăng tỉ lệ trong bệnh nhân ĐTĐ typ2. Những bệnh nhân mà tiền sừ và khám xét không nâng cao sự nghi ngờ của các nguyên nhân khác gây tăng LFTs, như thuốc, rượu, tự miễn, nguyên nhân chuyển hóa, hoạc nguyên nhân di truyền, và những bệnh nhân không có bằng chứng của bệnh gan trầm trọng, sự tăng như bilirubin hoạc giảm albumin, các kiểm tra chẩn đoán xa hơn thì có thể không cần đến.
     Kiểm tra thường xuyên LFTs trong bệnh nhân ĐTĐ typ2 nên làm tại thời điểm bắt đầu dùng thuốc và nếu bệnh nhân phát triển các triệu chứng làm tăng lo ngại về suy gan. Xa hơn nữa, kiểm tra định kì sẽ phải dựa trên đánh giá lâm sàng, nên nhớ rằng tăng transaminases không luôn luôn tương quan với thay đổi mô bệnh học trong gan. Tăng ALT trong khoảng 3 lần giá trị bình thường cao không phải là một chống chỉ định cho bắt đầu bất kì thuốc uống hạ đường máu nào, hoạc thuốc giảm mỡ máu. Trái lại, thuốc hạ đường máu thường làm giảm ALT khi mục kiểm soát đường máu chặt chẽ đạt được. 

Chủ Nhật, 14 tháng 8, 2016

CẢM LẠNH - COMMON COLD

1.TỔNG QUAN:

      Cảm lạnh, hay viêm nhiễm đường hô hấp trên, là một trong những nguyên nhân hàng đầu đi khám bác sỹ. Nguyên nhân thường do các chủng virus, điều trị cảm lạnh chỉ là điều trị triệu chứng. Kháng sinh không hiệu quả ở cả người lớn và trẻ em. Ở trẻ em, nguy cơ có hại tiềm ẩn và không có lợi ích khi điều trị bằng các thuốc ho và lạnh không cẩn kê đơn ( over-the-counter -- OTC). Do đó những loại thuốc này không nên dùng cho trẻ < 4 tuổi. Các thuốc thường dùng khác như corticoid hít, corticoid uống,Echinacea cũng không có hiệu quả trên trẻ em. Các thuốc cải thiện triệu chứng ở trẻ em bao gồm vapor rub (một loại dầu bôi có bạc hà), zinc sulfat, chiết xuất Pelargonium sidoides (geranium), mật kiều mạch (tam giác mạch). Phòng bệnh bằng men vi sinh (probiotics), zinc sulfat, rửa mũi bằng nước muối sinh lý, và thảo dược Chizukit giảm tỉ lệ cảm lạnh ở trẻ em. Với người lớn, antihistamines, corticoid đường mũi, codeine, rửa mũi nước muối, vá sông hơi thì không hiệu quả trong giảm triệu chứng cảm lạnh. Pseudoephedrin, phenylephrin, ipratropium hít, zinc (acetat hoạc glucozonat) làm giảm khiêm tốn độ nặng và thời gian bệnh ở người lớn.Thuốc giảm đau chống viêm nonSteroid và các triết xuất thảo dược , cải thiện triệu chứng ở người lớn. Dùng tỏi để phòng bệnh có thể giảm tần số mắc ở người lớn, nhưng không có hiệu quả trong giảm thời gian bị bệnh. Rửa tay để giảm sự lan rộng của virus gây cảm lạnh. Dùng Vitamin C phòng bệnh giảm kém triệu chứng và thời gian ở cả người lớn và trẻ em.
    Nguyên nhân hay gặp nhất là do rhinovirus. Các virus này tập trung trong các chất tiết của mũi, dễ dàng lây truyền qua hắt hơi, ho, sỉ mũi. Các dấu hiệu và triệu chứng bao gồm: sốt, ho, chảy mũi, tắc mũi, đau họng, và đau cơ. Bệnh nhân đến khám vì các triệu chứng của cảm lạnh vào tất cả các mùa.
Cạm lạnh sẽ tự giới hạn, thường lâu nhất là 10 ngày; do đó điều trị thì trực tiếp vào giảm triệu chứng hơn là điều trị nguyên nhân.
     Thuốc lạnh và ho đừng trong top 20 chất dẫn đầu dẫn đến cái chết trong trẻ em dưới 5 tuổi. Năm 2008, FDA khuyến cáo rằng những thuốc ho và lạnh OTC tránh dùng cho trẻ nhỏ hơn 2 tuổi. Sau khi xóa bỏ các thuốc ho và lạnh OTC cho trẻ em, Số lượng những ca cấp cứu do tác dụng phụ của thuốc đã giảm một nửa ở trẻ nhỏ hơn 2 tuổi. Các nhà sản xuất cũng tự nguyện thay đổi nhãn sản phẩm để chỉ ra rằng chúng nên tránh dùng ở trẻ <4 tuổi.

2.CÁC KHUYẾN CÁO THỰC HÀNH LÂM SÀNG:
  • Kháng sinh không nên dùng để điều trị triệu chứng cảm lạnh ở cả người lớn và trẻ em.  A
  • Các thuốc lạnh và ho OTC không nên dùng cho trẻ em nhỏ hơn 4 tuổi bởi vì nguy cơ gây hại và thiếu lợi ích. B
  • Điều trị vời buckwheat honey (mật kiều mạch-tam giác mạch), triết xuất Pelargonium sidoides, rửa mũi nước muối , vapor rub, hoạc zinc sulfat có thể giảm triệu chứng cảm lạnh ở trẻ em. B
  • Codeine thì không hiệu quả với ho ở người lớn. A
  • Đơn trị liệu antihistamin không triệu chứng cảm lạnh ở người lớn. A
  • Các thuốc thông mũi, hoạc phối hợp thuốc thông mũi với antihistamine, và ipratropium (Atrovent) trong mũi cỏ thể cải thiện triệu chứng ở người lớn. B
  • Thuốc giảm đau chống viêm không steroid giảm đau thứ phát do viêm nhiễm đường hô hấp trên ở người lớn. A

3 CÁC LIỆU PHÁP KHÔNG HIỂU QUẢ ĐIỀU TRỊ CẢM LẠNH Ở TRẺ EM:
  • Các kháng sinh: không có khác biệt trong sự kéo dài của triệu chứng với cảm lạnh hoạc viêm mũi nhầy mủ (purulent rhinitis) so sánh với giả dược (placebo)
  • Carbosystein: không khác nhau đáng kể trong ho, khó thở hoạc sức khỏe chung so với giả dược.
  • Dextromethorphan: không ưu việt hơn placebo trong ho về đêm hoạc chất lượng giâc ngủ ở trẻ hay bố mẹ.
  • Diphenhydramine;  không ưu việt hơn placebo trong ho về đêm hoạc chất lượng giâc ngủ ở trẻ hay bố mẹ.
  • Corticosteroid liều thấp đường mũi: không giảm số lần yêu cầu corticosteroid uống, số lần cấp cứu và nhập viện, tần số của sự khò khè, hay thời gian của mỗi lần cảm lạnh.
  • Prednisolone uống: không khác nhau đáng kể trong thời gian nằm viện, trung bình 7 ngày theo như cha mẹ báo cáo, hoạc vào lại viện vì khó thở trong vòng 1 tháng so với placebo.
  • OTC antihistamin: không hiệu quả hơn placebo với ho.
  • OTC antihistamin + thuốc làm thông mũi: không hiệu quả hơn placebo với ho.
  • Thuốc chống ho OTC: không hiệu quả hơn placebo với ho.
  • Thuốc chống ho OTC + thuốc giãn phế quản: không hiệu quả hơn placebo với ho.
  • Vitamnin C: chưa được nghiên cứu trên trẻ em.

Nguồn: http://www.aafp.org/afp/2012/0715/p153.html