(Bs. Đặng Ngọc).
I. GIỚI THIỆU:
- Bệnh chốc lở là một bệnh nhiễm vi khuẩn ngoài da lây nhiễm được hay gặp ở trẻ em. Nó có thể được phân loại là bệnh chốc lở nguyên phát (vi khuẩn trực tiếp xâm nhập vào da bình thường trước đó) (hình 1A-C) hoặc bệnh chốc lở thứ phát (nhiễm trùng ở các vùng tổn thương da nhỏ như trầy xước, chấn thương nhẹ, và côn trùng cắn, hoặc ở vùng da bị eczema) (hình 2)).
- Bệnh chốc lở thường gặp nhất ở trẻ em từ hai đến năm tuổi, mặc dù trẻ lớn hơn ở mọi lứa tuổi và người lớn cũng có thể bị ảnh hưởng. Nhiễm trùng thường xảy ra trong điều kiện ấm, ẩm và dễ lây lan giữa các cá nhân khi tiếp xúc gần gũi; các yếu tố nguy cơ bao gồm đói nghèo, đông đúc, vệ sinh kém và bị bệnh ghẻ.
II. BIỂU HIỆN LÂM SÀNG
- Các dạng của bệnh chốc lở bao gồm bệnh chốc lở không có phổng rộp (non-bullous impetigo), bệnh chốc lở có phổng rộp (bullous impetigo) , và ecthyma (chốc lở có loét) .
1.Bệnh chốc lở không có phổng rộp:
- Bệnh chốc lở không có phổng rộp là dạng phổ biến nhất của bệnh chốc lở. Các thương tổn bắt đầu dưới dạng papules (mụn) tiến triển đến các mụn nước được bao quanh bởi ban đỏ. Sau đó chúng trở thành mụn mủ to lên và nhanh chóng vỡ ra để tạo thành lớp vỏ dày, màu vàng bám dính với tổn thương; sự tiến triển này thường xảy ra trong khoảng một tuần .
( xem ảnh tại https://doctorplus.club/uptodate/image.htm?imageKey=DERM%2F96268~DERM%2F96267~ID%2F63314~ID%2F75066).
- Các thương tổn thường liên quan đến mặt và chi. Nhiều tổn thương có thể phát triển nhưng vẫn có xu hướng khu trú . Viêm hạch bạch huyết vùng có thể xảy ra, mặc dù các triệu chứng toàn thân thường vắng mặt.
chốc lở không phổng rộp. |
2. Bệnh chốc lở có phổng rộp (Bullous Impetigo):
- Là một dạng bệnh chốc lở nhìn thấy chủ yếu ở trẻ nhỏ, trong đó các mụn nước có thể to hình thành các bọng chứa chất lỏng màu vàng trong suốt, sau này trở nên tối hơn và đục hơn; sau đó bọng nước vỡ để lại một lớp vỏ mỏng màu nâu (hình 1C, 1F-G). Thông thường có ít tổn thương hơn so với non-bullous impetigo và vị trí thường hay ở thân mình.
- Bệnh chốc lở có phỏng rộp là do chủng S. aureus sinh exfoliative toxin A , một độc tố gây mất độ bám dính tế bào ở lớp biểu bì bề mặt bằng cách nhắm vào protein desmoglein.
( Xem ảnh tại https://doctorplus.club/uptodate/image.htm?imageKey=DERM%2F96269~DERM%2F96272~DERM%2F97673)
chốc có phổng rộp. |
3. Ecthyma (chốc loét)
- Là một dạng loét của bệnh chốc lở, trong đó các tổn thương lan rộng qua lớp biểu bì và sâu vào lớp hạ bì. Chúng bao gồm các vết loét "đục lỗ" được bao phủ bởi lớp vỏ màu vàng với viền nhô cao màu tím xung quanh.
( xem hình tại https://doctorplus.club/uptodate/image.htm?imageKey=DERM%2F96273~DERM%2F96274)
chốc loét |
III. CHẨN ĐOÁN:
- Việc chẩn đoán bệnh chốc lở thường có thể dựa trên biểu hiện lâm sàng.
- Nhuận Gram và cấy khuẩn mủ hoặc dịch tiết được khuyến cáo để xác định liệu S. aureus và / hoặc Streptococcus beta tan huyết là nguyên nhân. Tuy nhiên, điều trị có thể được bắt đầu mà không cần những xét nghiệm này ở những bệnh nhân có các biểu hiện lâm sàng điển hình.
IV. ĐIỀU TRỊ:
- Điều trị chốc lở là quan trọng để giảm sự lây lan của nhiễm trùng, giảm sự khó chịu, và cải thiện mỹ phẩm. Bệnh chốc lở và có thể được điều trị bằng liệu pháp tại chỗ hoặc đường uống. Liệu pháp tại chỗ được sử dụng cho những bệnh nhân bị ít tổn thương, trong khi điều trị bằng đường uống được khuyến cáo cho bệnh nhân có nhiều tổn thương. Không giống như bệnh chốc lở, ecthyma (chốc loét) nên luôn được điều trị bằng liệu pháp đường uống. Cần tránh tiếp xúc trong 24h kể từ khi kháng sinh thích hợp được chỉ định để tránh lây lan.
1. Bệnh chốc lở có giới hạn:
- Điều trị tại chỗ cho bệnh chốc lở nếu có số lượng thương tổn hạn chế.
+ Điều trị tại chỗ - Lợi ích của việc điều trị tại chỗ bao gồm ít tác dụng phụ hơn và giảm nguy cơ gây kháng kháng sinh so với liệu pháp uống. Mupirocin và retapamulin có lẽ là phương pháp điều trị tại chỗ hiệu quả nhất. Mupirocin được áp dụng ba lần mỗi ngày và retapamulin được áp dụng hai lần mỗi ngày. Thời gian điều trị được đề nghị là năm ngày.
+ Axit fusidic tại chỗ có thể có hiệu quả đối với bệnh chốc lở; tuy nhiên, bằng chứng về sự gia tăng đề kháng của S. aureus với axit fusidic ở những vùng sử dụng axit fusidic tại chỗ thường xuyên là một lựa chọn ít thuận lợi hơn cho điều trị. Axit fusidic không có sẵn ở Hoa Kỳ.
+Mặc dù các thành phần của thuốc mỡ kháng sinh ba loại không kê đơn (bao gồm bacitracin-neomycin-polymyxin B) có hoạt tính chống lại các sinh vật gây ra bệnh chốc lở, nhưng chúng có thể không hiệu quả trong điều trị. Do đó, không nên điều trị bệnh chốc lở với những thuốc này. Bacitracin và neomycin cũng có thể gây viêm da tiếp xúc. Trong một số ít trường hợp, bacitracin có liên quan đến phản ứng dị ứng phản vệ.
2. Bệnh chốc lở lan rộng và ecthyma (chốc loét) :
- Nên điều trị bằng đường uống.
- Kháng sinh toàn thân - Trừ khi nuôi cấy chỉ phát hiện streptococci, kháng sinh uống cho bệnh chốc lở và ecthyma nên có hiệu quả trong điều trị cả S. aureus và nhiễm trùng liên cầu (bảng 2) (xem 'Bệnh chốc lở Streptococcus' dưới đây). Dicloxacillin và cephalexin là phương pháp điều trị thích hợp vì S. aureus phân lập từ bệnh chốc lở và ecthyma thường nhạy cảm với methicillin. Mặc dù erythromycin và clindamycin cũng có thể điều trị bệnh chốc lở, một số chủng S. aureus và Streptococcus pyogenes có thể đề kháng với các liệu pháp này. Các lựa chọn điều trị cho bệnh chốc lở được cung cấp trong một bảng (bảng 2). Một liệu trình điều trị kháng sinh uống trong 7 ngày được khuyến cáo.
( Bảng 2: https://doctorplus.club/uptodate/image.htm?imageKey=DERM%2F96693)
Xem thêm đầy đủ tại: https://doctorplus.club/uptodate/topic.htm?path=impetigo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét