Thứ Tư, 25 tháng 7, 2018

CẢM LẠNH (COMMON COLD)- các can thiệp không hiệu quả.

I. THỜI GIAN CỦA MỘT ĐỢT BỆNH:
 - Ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, các triệu chứng của cảm lạnh thông thường thường cao điểm vào ngày 2-3 của bệnh và sau đó dần dần cải thiện trong 10 đến 14 ngày ( hình 1). Ho có thể kéo dài trong một số nhỏ trẻ nhưng phải ổn định trong vòng 3-4 tuần. Ở trẻ lớn hơn và thanh thiếu niên, các triệu chứng thường giải quyết trong 5 đến 7 ngày (dài hơn ở những người có bệnh phổi tiềm ẩn hoặc những người hút thuốc lá).
Image
Hình 1: diễn biến một đợt cảm

II. CÁC THUỐC KHÔNG KÊ TOA:
 - Các sản phẩm không kê đơn (OTC) để giảm triệu chứng cảm lạnh thông thường ở trẻ em bao gồm thuốc kháng histamin, thuốc thông mũi, thuốc chống nôn, thuốc long đờm, thuốc hạ sốt, thuốc hạ sốt / thuốc giảm đau và kết hợp các loại thuốc này
.● Trẻ em <6 tuổi - Ngoại trừ thuốc hạ sốt hoặc thuốc giảm đau, không nên dùng các thuốc OTC để tránh cảm lạnh thông thường ở trẻ em <6 tuổi.
● 6 đến 12 tuổi - Ngoại trừ thuốc hạ sốt hoặc thuốc giảm đau, chúng tôi khuyên bạn không nên sử dụng các thuốc OTC cho cảm lạnh thông thường ở trẻ em từ 6 đến 12 tuổi.
● Thanh thiếu niên ≥12 năm - Thuốc thông mũi OTC có thể giúp giảm triệu chứng của triệu chứng mũi ở trẻ vị thành niên ≥12 tuổi.
Trong các thử nghiệm ngẫu nhiên, đánh giá có hệ thống và phân tích gộp, các thuốc OTC chưa được chứng minh là có tác dụng tốt hơn giả dược ở trẻ em và có thể có tác dụng phụ nghiêm trọng. Các thuốc OTC ho và thuốc cảm lạnh có liên quan đến quá liều gây tử vong ở trẻ em dưới hai tuổi. Thuốc OTC có tiềm năng tăng độc tính ở trẻ nhỏ vì chuyển hóa, đào thải và các tác dụng phụ của thuốc có thể khác nhau tùy theo độ tuổi. Các khuyến nghị về liều lượng an toàn chưa được thiết lập cho trẻ em. 

Nếu cha mẹ chọn dùng các thuốc OTC để điều trị cảm lạnh thông thường ở trẻ em> 6 tuổi, họ nên được khuyên sử dụng thuốc đơn thành phần để điều trị triệu chứng khó chịu nhất và phải được chỉ định liều thích hợp để tránh độc tính tiềm ẩn . 

III. CÁC LIỆU PHÁP KHÔNG ĐƯỢC CHẤP NHẬN:
● Kháng sinh - Không có vai trò kháng sinh trong điều trị cảm lạnh thông thường. Thuốc kháng sinh không làm thay đổi quá trình cảm lạnh thông thường và không ngăn ngừa biến chứng thứ cấp, nhưng có thể gây tác dụng phụ đáng kể và góp phần làm tăng khả năng kháng khuẩn của vi khuẩn. Việc sử dụng kháng sinh nên được dành riêng cho các bệnh nhiễm khuẩn thứ phát được chẩn đoán rõ ràng, bao gồm viêm tai giữa do vi khuẩn, viêm xoang và viêm phổi.

● Thuốc kháng histamine - Chúng tôi không đề xuất thuốc kháng histamine để điều trị cảm lạnh thông thường. Trong các thử nghiệm ngẫu nhiên, cả thuốc kháng histamine lẫn thuốc thông mũi đều không hiệu quả trong việc làm giảm triệu chứng mũi hoặc ho ở trẻ bị cảm lạnh thông thường, và những thuốc này có thể có tác dụng phụ, bao gồm thuốc an thần, kích thích nghịch lý, suy hô hấp và ảo giác.

● Glucocorticoid đường mũi - Chúng tôi không đề nghị dùng corticoid dường mũi để điều trị các triệu chứng của cảm lạnh thông thường. Một đánh giá hệ thống năm 2015 của ba thử nghiệm (353 trẻ tham gia) không tìm thấy lợi ích nào.

● Thuốc chống ho - Chúng tôi không đề nghị dùng thuốc kê đơn (codein) hoặc thuốc kê đơn không kê đơn (OTC; dextromethorphan) để điều trị ho ở trẻ em bị cảm lạnh thông thường. Hiệu quả của chúng chưa được chứng minh và chúng có tiềm năng tăng độc tính.
Viện Hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ khuyến cáo chống lại sử dụng các loại thuốc có chứa codeine và dextromethorphan để điều trị ho liên quan đến nhiễm virus đường hô hấp do không có các nghiên cứu được kiểm soát tốt chứng minh hiệu quả và độ an toàn . Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ khuyến nghị chống lại các loại thuốc ho và thuốc cảm lạnh có chứa codeine hoặc hydrocodone cho trẻ em và thanh thiếu niên dưới 18 tuổi.

● Thuốc tan đờm và chất nhầy - Chúng tôi không đề nghị các thuốc tan đờm OTC (ví dụ, guaifenesin) hoặc các thuốc làm loãng chất nhầy (mucolytics , ví dụ, acetylcysteine, bromhexine, letosteine) để điều trị ho ở trẻ em bị cảm lạnh thông thường. Các thuốc này tương ứng làm tăng sản xuất chất nhầy và làm loãng dịch tiết đường hô hấp, để làm cho các chất tiết dễ dàng trục xuất ra khỏi đường hô hấp hơn . Cả hai dạng thuốc này đều không được chứng minh là có lợi cho trẻ em. Chỉ riêng, guaifenesin đơn độc tương đối an toàn, chỉ gây kích ứng đường tiêu hóa nhẹ, nhưng trong thuốc OTC, guaifenesin thường được kết hợp với các thành phần khác. Tác dụng phụ của các thuốc làm tan đàm (mucolytics) bao gồm co thắt phế quản, rối loạn tiêu hóa và sốt.

● Thuốc giãn phế quản - Chúng tôi không đề nghị thuốc giãn phế quản để điều trị ho ở trẻ em không bị suyễn với cảm lạnh thông thường. Thuốc giãn phế quản không hiệu quả đối với ho cấp tính ở trẻ em không bị suyễn. Tuy nhiên, trẻ bị hen suyễn bị cảm lạnh nên sử dụng các thuốc giãn phế quản như được chỉ ra theo kế hoạch hành động của bệnh suyễn.

● Aroma vapors (các chất bốc hơi thơm) để chà bên ngoài - Chúng tôi không đề nghị các chất thơm bôi ngoài da (ví dụ: tinh dầu bạc hà, long não, dầu khuynh diệp) để điều trị nghẹt mũi hoặc ho ở trẻ bị cảm lạnh thông thường.
+ Trong một thử nghiệm chéo ngẫu nhiên so sánh tinh dầu bạc hà và tinh dầu khuynh diệp ở 42 trẻ em khỏe mạnh, tinh dầu bạc hà làm tăng thông thoáng mũi nhưng không ảnh hưởng đến phép đo phế dung.
+ Trong một thử nghiệm ngẫu nhiên khác so sánh kết hợp chà hơi (long não, tinh dầu bạc hà và dầu bạch đàn) với petrolatum và không điều trị, chà hơi không ảnh hưởng đến chảy nước mũi nhưng giảm độ nặng ho, cải thiện trẻ và ngủ cha mẹ, và giảm điểm triệu chứng kết hợp; tất cả các kết quả đều được báo cáo bởi phụ huynh. Sự kết hợp chà hơi có liên quan đến ít nhất một tác dụng gây kích ứng nhẹ ở gần một nửa số trẻ em. Vì nghiên cứu không được thực hiện tốt (86% phụ huynh áp dụng phương pháp chà hơi đoán rằng nó có tác dụng), khả năng tác dụng giả dược đáng kể không thể loại bỏ được. Ngoài ra, báo cáo về ho của phụ huynh cần phải được đánh giá một cách thận trọng; báo cáo của cha mẹ về tần suất và mức độ nghiêm trọng của ho là không đáng tin cậy so với các biện pháp khách quan.

● Vitamin, khoáng chất và các sản phẩm thảo dược:
+ Vitamin C - Chúng tôi khuyên bạn không nên sử dụng vitamin C để điều trị cảm lạnh thông thường ở trẻ em. Trong một phân tích tổng hợp các thử nghiệm ngẫu nhiên năm 2013, vitamin C (200 mg / ngày) bắt đầu sau khi khởi phát triệu chứng không làm giảm thời gian (bảy thử nghiệm, 3249 đợt cảm lạnh) hoặc mức độ nghiêm trọng (bốn thử nghiệm, 2708 đợt lạnh) của các triệu chứng. Không có tác dụng phụ nghiêm trọng nào được báo cáo.
+  Kẽm - Chúng tôi khuyên bạn không nên sử dụng kẽm để điều trị cảm lạnh thông thường ở trẻ em. Hiệu quả của kẽm trong việc giảm thời gian hoặc mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng cảm lạnh ở trẻ em vẫn chưa rõ ràng, trong khi đó các tác dụng phụ thì lại thường gặp.

Bs. Đặng Ngọc 0973387024
Đồng hành cùng mẹ và bé!!!

Thứ Bảy, 21 tháng 7, 2018

CHĂM SÓC DA BAO QUY ĐẦU CHO TRẺ

I. GIẢI PHẪU BÌNH THƯỜNG VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA DA BAO QUY ĐẦU (FORESKIN):
 - Bao quy đầu là lớp da dư thừa thường kéo dài khoảng 1 cm ra ngoài quy đầu dương vật. Nó bảo vệ cho niệu đạo và qui đầu dương vật .
- Bao qui đầu bình thường bắt đầu phát triển như một nếp gấp biểu mô phát triển vào bên trong từ các tuyến của qui đầu dương vật tại thời điểm thai tám đến chín tuần tuổi và hoàn thành bình thường trước khi thai 4 đến 4,5 tháng. Lớp biểu mô vảy lát bên trong của bao qui đầu ban đầu dính với dương vật.

II. DA BAO QUI ĐẦU CO RÚT (FORESKIN RETRACTION):
 - Tách bao quy đầu ra khỏi quy đầu dương vật bắt đầu muộn trong thai kỳ, nhưng vẫn chưa hoàn chỉnh ở hầu hết các trẻ nam lúc sinh. Chỉ có khoảng 4 phần trăm nam giới có một bao quy đầu hoàn toàn có thể thu vào lúc sinh, và trong hơn một nửa nam giới mới sinh, da bọc qui đầu không thể được rút lại đủ để nhìn rõ lỗ niệu đạo.
- Sau khi sinh, dương vật phát triển và sự cương cứng sinh lý giúp cho quá trình bong tróc và hình thành keratinized (smegma) giữa các lớp, làm lỏng dần sự dính và cho phép da qui đầu co rút lại được.

Hẹp bao quy đầu được chia thành các dạng hẹp sinh lý và hẹp bệnh lý:
● Hẹp sinh lý, được thấy ở hầu hết các nam giới mới sinh, là do sự phát triển bình thường của các kết dính bẩm sinh giữa da bọc qui đầu và qui đầu.
● Hẹp bệnh lý được định nghĩa là bao quy đầu thực sự không thể co rút do sẹo ở phần xa của bao qui đầu, chẳng hạn như xuất hiện sự xơ hóa bao qui đầu do nhiễm trùng và viêm. Sẹo này thường xuất hiện như một vòng sợi trắng bị co thắt quanh qui đầu (hình 2) .
Image
Hình 2: hẹp bao qui đầu bệnh lý

III. VỆ SINH VÀ CHĂM SÓC DA QUI ĐẦU HÀNG NGÀY:
 - Điều quan trọng là phải giáo dục cả cha mẹ lẫn người chăm sóc về việc chăm sóc và vệ sinh định kỳ cho trẻ sơ sinh nam không cắt bao quy đầu. Giáo dục tối ưu làm giảm sự lo lắng của cha mẹ và các giới thiệu không cần thiết cho các bác sỹ, và, có lẽ, làm giảm nguy cơ hẹp qui đầu bệnh lý.
- Các hướng dẫn dựa trên bằng chứng cho việc chăm sóc da qui đầu không tồn tại, nhưng cách tiếp cận sau đây để chăm sóc định kỳ dựa trên ý kiến các chuyên gia và các nghiên cứu quan sát .
● Ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ (< 6 tháng tuổi), da bọc qui đầu không cần chăm sóc đặc biệt gì khác so với các phần da còn lại của cơ thể. Dương vật nên được rửa thường xuyên khi tắm. Xà phòng có thể được sử dụng miễn là nó không gây kích ứng và an toàn với tuổi của trẻ.
● Thay tã thường xuyên để ngăn ngừa phát ban tã và giảm kích ứng da.
● Tránh giật mạnh da qui đầu về sau vì rách có thể gây ra chảy máu, và có thể dẫn đến xơ hóa và phát triển hẹp bao quy đầu bệnh lý. Rút lại nhẹ nhàng da bao quy đầu khi thay tã và tắm sẽ cho phép co hồi dần dần và tách dần qui đầu khỏi dương vật. Khi bao quy đầu co rút lại tự nhiên, vệ sinh sạch và sau đó làm khô bên dưới bao quy đầu. Sau khi tắm, bao quy đầu bị  rút lại luôn luôn được kéo về vị trí bình thường của nó bao phủ qui đầu dương vật. Việc không làm như vậy có thể dẫn đến chứng nghẹt bao qui đầu (paraphimosis - khi bao quy đầu được rút lại phía sau qui đầu dương vật  và không thể quay trở lại vị trí bình thường của nó), kết quả là tắc tĩnh mạch và bạch huyết của qui đầu dương vật (hình 3). 
- Khi trẻ lớn hơn, trẻ nên được hướng dẫn về việc rút bao qui đầu, vệ sinh thường xuyên và lau khô qui đầu, và trả lại bao qui đầu về vị trí bình thường của nó.
Image
Hình 3: paraphimosis (nghẹt bao qui đầu)

Trong lần khám kiểm tra sơ sinh và thăm khám trẻ định kỳ, việc đánh giá nên bao gồm đánh giá dòng nước tiểu và bao gồm các câu hỏi sau đây:
● Dòng nước tiểu có mạnh không?
● Dòng nước tiểu có thẳng không? 
● Bao quy đầu có bị phồng ra khi đi tiểu không?
● Trẻ có thấy thoải mái khi đi tiểu không? 
 - Nếu câu trả lời cho bất kỳ câu hỏi nào trong số này là không, ngoại trừ việc bao qui đầu phồng lên khi đi tiểu, cần thực hiện các đánh giá chuyên sâu hơn bao gồm, nếu có thể, quan sát trực tiếp dòng nước tiểu. Trong một số trường hợp, bất thường dòng nước tiểu có thể là do các biến chứng của bao qui đầu.

IV. CÁC TÌNH TRẠNG LIÊN QUAN ĐẾN DA QUI ĐẦU:
 - Một vài tình trạng có thể được nhìn thấy trong các bé trai không cắt bao quy đầu; một số là lành tính và chỉ yêu cầu trấn an cho bệnh nhân và cha mẹ, và một số là những biến chứng cần được can thiệp.

1. Các tình trạng lành tính:
 - Mà thường không yêu cầu can thiệp, chỉ cần trấn an, bao gồm:
● Hẹp qui đầu sinh lý.
● Nang bao qui đầu do bựa sinh dục (smegma)
● Phình bóng thoáng qua của bao quy đầu.

1.1. Hẹp qui đầu sinh lý:
- Như đã thảo luận ở trên, hiện tượng hẹp sinh lý có mặt ở hầu như tất cả nam giới mới sinh. Mặc dù tỉ lệ bong ra tự phát của hẹp bao qui đầu sinh lý cao, tỷ lệ này biến đổi nên không thể thiết lập một độ tuổi mà da bọc qui đầu nên thường rút lại và tách khỏi qui đầu. Với các bé trai ở độ tuổi đi học có da bọc qui đầu không co lại được hoàn toàn, cha mẹ của các bé này nên được tư vấn rằng đó là bình thường và theo thời gian, có khả năng rất cao sẽ co rút lại một cách tự nhiên. Các bác sĩ lâm sàng cũng nên hướng dẫn cha mẹ về việc tăng cường vệ sinh qui đầu thích hợp; bệnh nhân và / hoặc cha mẹ có thể được dạy để thực hiện co kéo nhẹ nhàng bao qui đầu về sau. Một liệu trình kéo dài bốn đến tám tuần thuốc corticosteroid tại chỗ (ví dụ, kem betamethasone 0,05%) được bôi trực tiếp vào trước bao qui đầu hai lần mỗi ngày, đẩy nhanh quá trình co rút tự nhiên của bao qui đầu. (Xem 'Nhiễm trùng đường tiết niệu tái phát'  bên dưới.)

1.2. Bựa sinh dục và nang bao qui đầu:
 - Các tế bào biểu mô bong tróc bị mắc kẹt dưới bao quy đầu được gọi là bựa sinh dục. Ở các bé trai có bao quy đầu không thể hoàn toàn co rút lại được, bựa sinh dục có thể hình thành cục u trắng dưới bao quy đầu, thường được gọi là u nang qui đầu. Nang này là lành tính và thường nằm xung quanh nếp qui đầu. Nó hỗ trợ cho quá trình tách biệt giữa bao qui đầu và qui đầu dương vật , và được ép đùn ra khi da bọc qui đầu trở nên dễ co rút hơn.

1.3. Bao quy đầu phồng to (Foreskin ballooning);
- Phình bong bóng thoáng qua của bao qui đầu trong quá trình đi tiểu thường là lành tính. Tuy nhiên, nếu việc giữ nước tiểu chỉ có thể được giải quyết sau khi dùng tay để ép, phụ huynh nên cho trẻ đi khám bác sỹ. Trong tất cả các trường hợp khác, cha mẹ nên được trấn an đây là một tình trạng lành tính sẽ tự giải quyết theo thời gian vì có sự gia tăng sự co rút của bao quy đầu.

2. Các tình trạng bệnh lý :
- Các biến chứng của bao quy đầu thường đòi hỏi sự can thiệp bao gồm:
● Hẹp bao qui đầu bệnh lý
● Paraphimosis (nghẹt qui đầu)
● Nhiễm trùng đường tiết niệu tái phát (UTIs)
● Viêm đầu dương vật và bao qui đầu nặng / tái phát
● Balanitis xerotica obliterans (BXO) ( Viêm xơ qui đầu)
● Frenulum breve ( dây thắng dương vật ngắn).
Trong một đánh giá của Đan Mạch năm 2014 về 181 nam giới cần can thiệp phẫu thuật cho các biến chứng bao quy đầu, hẹp bao quy đầu là chỉ định cho hầu hết bệnh nhân (n = 172, 95%) và chín bệnh nhân còn lại có benve frenulum, chủ yếu là triệu chứng trong quá trình cương cứng. Một phần tư bệnh nhân (n = 46) bị nghi ngờ có BXO trước khi phẫu thuật, và 31 bệnh nhân (17%) có ít nhất một lần viêm qui đầu (sưng dương vật qui đầu).

2.1. Hẹp qui đầu bệnh lý:
 - Được định nghĩa là bao quy đầu thực sự không thể thụt vào thứ phát do sẹo ở phần xa của da qui đầu, chẳng hạn như da qui đầu xơ hóa do chấn thương, nhiễm trùng và / hoặc viêm. Một vòng xơ qui đầu (cicatrix) có thể hình thành từ sẹo do co rút cưỡng bức bao qui đầu hoặc sau các đợt viêm qui đầu. Cicatrix cũng có thể xảy ra do sẹo sau khi cắt bao quy đầu. (Xem "Các biến chứng của cắt bao quy đầu", phần trên 'Cicatrix'.)
- Các triệu chứng của hẹp bao qui đầu bệnh lý bao gồm:
● Da qui đầu không thể co rút thứ phát sau khi đã có thể co rút ở độ tuổi sớm hơn
● Kích thích hoặc chảy máu từ bao qui đầu
● Dysuria ( tiểu đau hoặc tiểu khó)
● Khó cương cứng
● Viêm qui đầu và bao qui đầu tái phát
● Giữ nước tiểu mãn tính với da qui đầu phồng bong bóng chỉ được giải quyết bằng cách nén bằng tay.
- Hẹp bao qui đầu bệnh lý làm tăng nguy cơ biến chứng bao quy đầu khác bao gồm nghẹt qui đầu, nhiễm trùng đường tiết niệu tái phát, viêm qui đầu tái phát / nặng và BXO.
- Khi có bệnh hẹp bao qui đầu bệnh lý, nên tìm kiếm tư vấn từ bác sỹ tiết niệu nhi khoa. Một vài lựa chọn điều trị tồn tại, và phụ huynh không bao giờ nên được tư vấn rằng con họ "cần" cắt bao quy đầu mà không xem xét các biện pháp can thiệp thận trọng hơn. Các lựa chọn điều trị bao gồm:
● Các bài tập kéo bao qui đầu đã được báo cáo là có một số thành công trong điều trị bệnh hẹp bao quy đầu. Trong một nghiên cứu so sánh việc kéo da bao qui đầu và corticosteroid tại chỗ với nhóm kiểm soát chỉ với kéo da qui đầu một mình, 60 trong số 90 trẻ trong nhóm đối chứng đáp ứng với sự giải phóng của bao quy đầu hẹp bằng cách  rút lại càng xa càng tốt khoảng 1 phút, thực hiện 4 lần hàng ngày từ một đến ba tháng.
● Corticosteroids tại chỗ, thường được dùng đồng thời với các bài tập kéo rút thường xuyên, có hiệu quả ở hầu hết các bé trai bị hẹp qui đầu bệnh lý. Kem Betamethasone (0,05%) là thuốc bôi được sử dụng thường xuyên nhất; các thuốc khác bao gồm 0,01 đến 0,5% triamcinolone và 0,05% fluticasone propionate. Trong hai nghiên cứu lâm sàng, sử dụng hàng ngày của kem betamethasone 0,05% trong ít nhất bốn tuần dẫn đến giải phóng đầy đủ của hẹp bao quy đầu ở hơn 90% bệnh nhân.
● Phẫu thuật cắt bao qui đầu.
- Trong thực tế, ban đầu chúng tôi điều trị hẹp qui đầu bệnh lý với kem betamethasone 0,05% bôi hai lần một ngày trực tiếp trên và xung quanh vòng hẹp trong sáu tuần, và các bài tập kéo rút (co rút nhẹ bao quy đầu) thực hiện nhiều lần trong ngày. Ở những bệnh nhân thất bại điều trị corticosteroid tại chỗ, các lựa chọn phẫu thuật được trình bày cho bệnh nhân / gia đình và lựa chọn can thiệp dựa trên những phát hiện lâm sàng và ưu tiên của bệnh nhân / gia đình.

2.2. Paraphimosis (nghẹt qui đầu):
 - Nghẹt qui đầu có thể dẫn đến tắc nghẽn tĩnh mạch và bạch huyết của  qui đầu, và cuối cùng là chèn ép động mạch (hình 3). Paraphimosis là một trường hợp khẩn cấp và cần được cấp cứu ngay.

2.3. Nhiễm trùng tiết niệu tái phát:
 - Nguy cơ tăng gấp 4 đến 10 lần ở trẻ sơ sinh không cắt bao quy đầu so với cắt bao quy đầu. Ở những bé trai có UTI tái phát hoặc có UTI và / hoặc bằng chứng về bất thường cơ quan sinh dục tiết niệu (ví dụ như trào ngược nước tiểu), cắt bao quy đầu có thể được coi là can thiệp tiềm năng để giảm nguy cơ UTI trong tương lai.

2.4. Balanoposthitis:
 - Là một tình trạng viêm của qui đầu và bao quy đầu (hình 4).  Chú ý, balanitis là viêm chỉ có ở qui đầu. Mặc dù ở trẻ có nhiều nguyên nhân, balanoposthitis thường là kết quả từ vệ sinh kém mà đôi khi phức tạp do nhiễm trùng thứ phát. Trong trường hợp nghiêm trọng, bệnh nhân có thể không thể đi tiểu, trong trường hợp này, việc đặt ống thông bàng quang được chỉ định.

Image
Hình 4: Balanoposthitis

2.4. Balanitis xerotica obliterans :
- Là một bệnh viêm da teo mãn tính không rõ nguyên nhân. Nó là một bất thường sinh dục của sự liken hóa và xơ teo và được đặc trưng bởi mảng xơ trắng trên qui đầu dương vật và bao quy đầu. Những mảng bám này cuối cùng mở rộng và kết hợp thành một khối xơ cứng với các kết dính (hình 5).
- Mặc dù corticosteroid tại chỗ đã được sử dụng để điều trị BXO, nhưng kết quả là kém ngoại trừ trong những trường hợp nhẹ. Ở những bệnh nhân bị hẹp bao quy đầu, cắt bao quy đầu là sự can thiệp ưu tiên vì nó là phương pháp chữa trị ở hầu hết các bệnh nhân. Tuy nhiên, nếu sau khi cắt bao quy đầu BXO vẫn dai dẳng, tái tạo và / hoặc tham khảo bác sỹ da liễu có thể cần thiết.
Image
Hình 5: Balanitis xerotica obliterans
2.5. Frenulum breve ( dây thắng dương vật ngắn):
- Frenulum của dương vật là một mô đàn hồi dưới qui đầu dương vật kết nối với bao quy đầu và giúp hợp bao qui đầu co rút qua qui đầu. Ở nam giới với breve frenulum, frenulum là quá ngắn, và do đó hạn chế sự di chuyển của bao quy đầu. Tình trạng này thường có triệu chứng hơn trong quá trình cương cứng vì thắng dương vật ngắn khi cương cứng, dẫn đến đau. Trong trường hợp nghiêm trọng, trong quá trình kích thích tình dục, nó có thể bị rách, dẫn đến khó chịu và chảy máu.

Nguồn: https://doctorplus.club/uptodate/topic.htm?path=care-of-the-uncircumcised-penis-in-infants-and-children#H172410968

************* Bs Đặng Ngọc 0973. 387. 024 *************

Thứ Sáu, 20 tháng 7, 2018

VIÊM PHỔI MẮC PHẢI TẠI CỘNG ĐỒNG (CAP) - ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ

I. CHỈ ĐỊNH NHẬP VIỆN:
- Quyết định nhập viện cho trẻ có CAP được cá nhân hóa dựa trên độ tuổi, các bệnh lý nền của trẻ và các yếu tố lâm sàng bao gồm mức độ nghiêm trọng của bệnh (bảng 1- https://doctorplus.club/uptodate/image.htm?imageKey=PEDS%2F72015). Nhập viện thường được chỉ định cho trẻ nhỏ hơn ba đến sáu tháng tuổi, trừ khi nghi ngờ nguyên nhân do virus hoặc Chlamydia trachomatis và trẻ không có giảm oxy máu và tương đối không có triệu chứng. Nhập viện cũng được chỉ định cho trẻ em ở mọi lứa tuổi mà gia đình không thể chăm sóc thích hợp và đảm bảo tuân thủ phác đồ điều trị. Chỉ định bổ sung cho nhập viện bao gồm:
● Hạ oxy máu (độ bão hòa oxy <90% trong không khí trong phòng ở mực nước biển)
● Mất nước, hoặc không có khả năng duy trì cân bằng nước bằng đường uống; không có khả năng ăn ở trẻ sơ sinh.
● Suy hô hấp trung bình đến nặng: Tấn số thở > 70 lần/phút đối với trẻ <12 tháng tuổi và > 50 lần/phút đối với trẻ lớn hơn; khó thở (thở rên, phập phồng mũi,); ngưng thở
● Biểu hiện nhiễm độc (hay gặp hơn ở viêm phổi do vi khuẩn và có thể gợi ý một đợt bệnh nghiêm trọng).
● Các tình trạng bệnh lý có sẵn có thể dẫn đến viêm phổi nghiêm trọng hơn (ví dụ bệnh tim- phổi, các hội chứng di truyền, các rối loạn thần kinh) có thể trở nên nặng hơn do viêm phổi, thậm chí là viêm phổi do virus (ví dụ rối loạn chuyển hóa) hoặc có thể ảnh hưởng xấu đến đáp ứng điều trị (vd , ở trẻ suy giảm miễn dịch).
● Các biến chứng (ví dụ, tràn dịch màng phổi).
● Nghi ngờ hoặc xác nhận rằng CAP là do tác nhân gây bệnh tăng độc lực, chẳng hạn như Staphylococcus aureus hoặc nhóm A Streptococcus
● Thất bại điều trị ngoại trú (xấu đi hoặc không có đáp ứng trong 48 đến 72 giờ)

II. ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ THEO KINH NGHIỆM:

- Trẻ em với CAP được điều trị ngoại trú thường được điều trị theo kinh nghiệm; các xét nghiệm để xác định nguyên nhân vi sinh không được khuyến cáo cho hầu hết trẻ em đủ khỏe để được điều trị ngoại trú. ( Bằng chứng lâm sàng và x quang gợi ý nguyên nhân gây viêm phổi: bảng 3- https://doctorplus.club/uptodate/image.htm?imageKey=PEDS%2F52021)

 1.Trẻ em <5 tuổi:
- Trẻ sơ sinh - Việc điều trị viêm phổi sơ sinh được thảo luận riêng biệt. (Xem "Viêm phổi sơ sinh".)
- Trẻ một đến sáu tháng - Trẻ dưới ba đến sáu tháng tuổi bị nghi ngờ CAP do vi khuẩn hoặc bị thiếu oxy (độ bão hòa oxy <90 phần trăm ở không khí trong phòng) nên được đưa vào bệnh viện để điều trị theo kinh nghiệm.
- Ở trẻ nhũ nhi từ một đến bốn tháng tuổi không sốt bị CAP mầm bệnh vi khuẩn có khả năng nhất là C. trachomatis. Trẻ sơ sinh được cho là có viêm phổi không sốt, có thể được điều trị trong môi trường ngoại trú nếu chúng không bị thiếu oxy và vẫn còn không sốt.
- Bordetella pertussis (trực khuẩn ho gà) là một nguyên nhân ít phổ biến, nhưng nghiêm trọng hơn; có thể có sốt hoặc không có sốt. Giống như C. trachomatis, ho gà nhạy cảm với các macrolide. Tuy nhiên, trẻ nhỏ được cho là bị viêm phổi do ho gà nên được nhập viện vì chúng có nguy cơ bị biến chứng (ví dụ, thiếu oxy, ngưng thở, tăng áp phổi, vv).

2. Sáu tháng đến năm tuổi:

2.1.Nghi ngờ nguyên nhân do virus:
- Nguyên nhân vi rút chiếm ưu thế trong thời thơ ấu. Viêm phổi do virus (nghi ngờ khi khởi phát dần dần, trước đó trẻ có các triệu chứng đường hô hấp trên, nghe phổi thấy lan tỏa nhiều, không có biểu hiện nhiễm độc (bảng 3)), nếu nghi ngờ do virus trẻ không nên được điều trị bằng thuốc kháng sinh. Các thuốc kháng vi-rút nói chung không được sử dụng cho viêm phổi do virus trong môi trường ngoại trú, ngoại trừ các chất ức chế neuraminidase cho viêm phổi do virus cúm.
- Nếu viêm phổi được nghi ngờ do cúm, thuốc kháng virus nên được bắt đầu ngay lập tức mà không cần đợi các xét nghiệm tìm nguyên nhân.

2.2. Nghi ngờ nguyên nhân vi khuẩn:
 - Streptococcus pneumoniae là nguyên nhân thường gặp nhất gây viêm phổi do vi khuẩn "điển hình" ở trẻ em ở mọi lứa tuổi . Viêm phổi do vi khuẩn ở trẻ trước tuổi đi học thường gây nhiễm trùng nặng hơn, khởi phát đột ngột và suy hô hấp từ trung bình đến nặng, có thể cần điều trị nội trú.
- Nếu được tiêm chủng thích hợp, đối với trẻ em dưới 5 tuổi , nếu bị viêm phổi nghi ngờ do vi khuẩn dựa trên biểu hiện lâm sàng, khám lâm sàng, và dữ liệu hình ảnh hoặc xét nghiệm hỗ trợ nếu thu được (ví dụ: viêm phổi thùy trên xquang, số lượng bạch cầu> 15.000 / microL, Protein phản ứng C> 35 đến 60 mg / L [3,5 đến 6 mg / dL]), nhưng không cần điều trị nội trú, amoxicillin thường được coi là thuốc được lựa chọn. Chúng tôi đề nghị amoxicillin liều cao (90 đến 100 mg / kg mỗi ngày chia làm hai hoặc ba liều; liều tối đa 4 g / ngày)
- Amoxicillin được ưu tiên vì nó có hiệu quả chống lại phần lớn các tác nhân gây bệnh do vi khuẩn gây ra cho CAP ở lứa tuổi này, được dung nạp tốt và không tốn kém. Amoxicillin hoạt động trong ống nghiệm mạnh hơn so với bất kỳ cephalosporin uống nào với các chủng này.
- Liều amoxicillin cao được đề xuất vì mối quan tâm đối với S. pneumoniae kháng kháng sinh được phân lập từ bệnh nhân nhiễm khuẩn đường hô hấp cộng đồng, mặc dù điều này ít quan tâm hơn sau khi vắc xin phế cầu khuẩn được tiêm rộng rãi .
- Đối với trẻ có phản ứng quá mẫn non-type 1 với penicillin , cephalosporin thế hệ thứ hai hoặc thứ ba (ví dụ, cefdinir) là một lựa chọn thay thế có thể chấp nhận được. Đối với trẻ có phản ứng quá mẫn typ 1 với penicillin, clindamycin hoặc macrolide có thể được sử dụng. Tuy nhiên, nếu tỷ lệ đề kháng theo vùng cao đối với clindamycin và macrolides, levofloxacin hoặc linezolid có thể thích hợp hơn.
- Đối với trẻ sơ sinh hoặc trẻ em bị nghi ngờ CAP do vi khuẩn và không thể dung nạp đường uống, một liều khởi đầu duy nhất của ceftriaxone (50 đến 75 mg / kg) có thể tiêm bắp hoặc tiêm tĩnh mạch trước khi bắt đầu kháng sinh đường uống. Quản lý ceftriaxone tiêm bắp cho trẻ em với CAP không biến chứng, những người có khả năng dung nạp các chất lỏng đắt tiền và không có lợi ích gì đối với thuốc kháng sinh uống.

* Viêm phổi không điển hình - Mycoplasma pneumoniae và Chlamydia pneumoniae ít phổ biến hơn S. pneumoniae ở trẻ dưới 5 tuổi. Tuy nhiên, chúng có thể xảy ra ở nhóm tuổi này và nên được xem xét ở trẻ em viêm phổi không có biến chứng và không cải thiện sau 48 đến 72 giờ điều trị theo kinh nghiệm đối với S. pneumoniae (ví dụ amoxicillin), tại thời điểm đó macrolid có thể thêm hoặc thay thế.

3. Trẻ em ≥5 tuổi:

3.1. Nghi ngờ do vi khuẩn:
 - S. pneumoniae là nguyên nhân thường gặp nhất gây viêm phổi do vi khuẩn "điển hình" ở trẻ em ở mọi lứa tuổi. Tuy nhiên, ở những trẻ em khỏe mạnh từ 5 tuổi trở lên có CAP mà không đủ nặng để phải nhập viện, M. pneumoniae và C. pneumoniae là những tác nhân gây bệnh nhiều nhất.
- Chúng tôi đề nghị kháng sinh nhóm macrolid là đầu tay cho nghi ngờ CAP không điển hình ở trẻ em trên 5 tuổi được điều trị ngoại trú. Kháng sinh nhóm macrolide bao phủ cho các tác nhân gây bệnh không điển hình và một phần bao phủ cho S. pneumoniae, mặc dù kháng macrolid tồn tại ở cả M. pneumoniae và S. pneumoniae. Đối với trẻ em ≥5 tuổi với các đặc điểm lâm sàng gợi ý mạnh mẽ của viêm phổi do vi khuẩn điển hình hoặc S. pneumoniae điển hình (bảng 3), amoxicillin vẫn là thuốc được lựa chọn (bảng 2)
- Sự phổ biến của M. pneumoniae kháng macrolid đang gia tăng ở một số vùng địa lý, bao gồm Châu Á, Châu Âu, Israel và Hoa Kỳ. Tỷ lệ kháng thuốc được báo cáo giữa các chủng M. pneumoniae dao động từ khoảng 10% ở Hoa Kỳ đến 90% ở Trung Quốc và một số vùng của Nhật Bản. Các thuốc thay thế bao gồm levofloxacin và doxycycline. Mối lo ngại lâu dài về việc đen men răng đối với doxycycline ở trẻ em dưới 8 tuổi là vô căn cứ.
- Trong số các kháng sinh nhóm macrolid, clarithromycin và azithromycin có lịch dùng thuốc thuận tiện hơn và ít tác dụng phụ hơn erythromycin, nhưng erythromycin thì rẻ hơn. Kháng sinh nhóm macrolide có thể bao phủ cho S. pneumoniae, là mầm bệnh vi khuẩn điển hình thường gặp nhất ở mọi lứa tuổi. Tuy nhiên, khoảng 40 đến 50% các chủng S. pneumoniae có khả năng kháng các macrolid. Không đáp ứng với liệu pháp macrolide có thể cho thấy sự phát triển của một biến chứng, một tác nhân gây bệnh kháng macrolid, và / hoặc sự cần thiết phải thay đổi liệu pháp để phổ kháng phế cầu khuẩn tốt hơn. ( Liểu thuốc tham khảo tại bảng https://doctorplus.club/uptodate/image.htm?imageKey=PEDS%2F80561).
- Với sự đề kháng đáng kể của S. pneumoniae với macrolides, fluoroquinolones (ví dụ, levofloxacin, moxifloxacin) là một lựa chọn hợp lý khác cho việc điều trị ngoại trú của CAP ở trẻ lớn hơn khi viêm phổi điển hình cũng được xem xét dựa trên các phát hiện lâm sàng (bảng 3). Ngoài phổ gram âm tuyệt vời của chúng, các fluoroquinolones có hoạt tính chống lại một số mầm bệnh gây CAP, bao gồm cả S. pneumoniae nhạy cảm và không nhạy cảm với beta-lactam, M. pneumoniae và C. pneumoniae. Tuy nhiên, S. pneumoniae đề kháng với levofloxacin đã được xác định.
- Hướng dẫn thực hành lâm sàng của Hiệp hội lồng ngực Anh đề xuất amoxicillin là liệu pháp đầu tiên cho trẻ em ở mọi lứa tuổi.

3.2. Nghi ngờ cúm:
 - Bắt đầu điều trị kháng virus cúm (ví dụ, oseltamivir) càng sớm càng tốt cho trẻ em bị nghi ngờ cúm có nguy cơ cao bị biến chứng viêm phổi do cúm (bảng 4); xác nhận phòng bằng xét nghiệm không nên trì hoãn việc bắt đầu điều trị kháng virus.

3.3. Nghi ngờ viêm phổi hít (aspiration pneumonia):
 - Viêm phổi hít mắc phải tại cộng đồng thường được điều trị bằng amoxicillin-clavulanate. Clindamycin là một lựa chọn thay thế cho bệnh nhân dị ứng với penicillin. Liều được cung cấp trong bảng (bảng 2). Ở những thanh thiếu niên bị tổn thương thần kinh, những người có thể dễ bị sự kiện hít vào phổi, điều trị theo kinh nghiệm với moxifloxacin (400 mg một lần mỗi ngày) là một lựa chọn thay thế. Moxifloxacin hoạt động chống lại vi khuẩn kỵ khí, cũng như các nguyên nhân có thể điều trị thông thường của CAP: S. pneumoniae, M. pneumoniae và C. pneumoniae. Kháng sinh fluoroquinolone thường không được khuyến cáo cho trẻ em dưới 18 tuổi khi có một lựa chọn an toàn và hiệu quả thay thế.

4. Thời gian dùng kháng sinh:
 - Một vài thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên đã được thực hiện để xác định thời gian thích hợp của điều trị kháng sinh trong viêm phổi thời thơ ấu đã được xác nhận X quang phổi. Thực hành hiện tại ở các nước phát triển xác định thời gian điều trị dựa trên tuổi của người bệnh, tác nhân gây bệnh, và mức độ nghiêm trọng của bệnh:
● Chúng tôi đề nghị trẻ ≥4 tháng tuổi và trẻ bị viêm phổi không biến chứng nghi ngờ hoặc được xác nhận là do tác nhân gây bệnh thông thường (ví dụ: S. pneumoniae, M. pneumoniae, C. pneumoniae) được điều trị từ 7 đến 10 ngày; đợt điều trị với azithromycin là năm ngày.

5. Theo dõi đáp ứng:
 - Trẻ em có CAP được điều trị ngoại trú (kể cả những người không được điều trị ban đầu bằng kháng sinh) nên theo dõi trong vòng 24 đến 48 giờ. Theo dõi có thể được thực hiện qua điện thoại. Trẻ em bị CAP được điều trị thích hợp thường có dấu hiệu cải thiện trong vòng 48 đến 72 giờ.
- Thất bại điều trị - Trong số những bệnh nhân không cải thiện như dự đoán, các khả năng sau đây phải được xem xét:
● Các chẩn đoán thay thế hoặc kết hợp (ví dụ: dị vật đường thở)
● Phát triển các biến chứng.
● Phổ kháng sinh không hiệu quả (thiếu bao phủ cho nguyên nhân thực tế hoặc vi khuẩn kháng kháng sinh).

5.1. Trường hợp diễn biến xấu đi:
- Bệnh nhân có diễn biến bệnh nặng hơn cần được đánh giá bổ sung và chỉ định nhập viện. Họ cũng nên được chỉ định chụp x-quang để tìm kiếm sự phát triển của các biến chứng. Các xét nghiệm trong nên được thực hiện để cố gắng thiết lập chẩn đoán vi sinh.

5.2. Không cải thiện:
- Ở những bệnh nhân không cải thiện nhưng không xấu đi, có thể hợp lý để thêm hoặc tăng cường phổ kháng khuẩn cho S. pneumoniae hoặc vi khuẩn không điển hình nếu những vi khuẩn này không được bao gồm trong liệu pháp ban đầu.
● Bệnh nhân được điều trị bằng kháng sinh beta-lactam ban đầu - Không cải thiện khi được điều trị bằng kháng sinh beta-lactam (amoxicillin hoặc cephalosporin) có thể chỉ ra nhiễm trùng do S. pneumoniae kháng penicillin hoặc S. aureus (hoặc nhạy cảm methicillin hoặc đề kháng) ). Nếu nghi ngờ S. pneumoniae kháng penicillin, có thể chỉ định thay đổi thành clindamycin hoặc linezolid. Levofloxacin là một lựa chọn nếu có tỷ lệ phế cầu khuẩn kháng cao với clindamycin. Nếu S. aureus bị nghi ngờ dựa trên diễn biến lâm sàng xấu đi nhanh chóng với các phát hiện x quang tiến triển có thể bao gồm nhiều sự thâm nhiễm phế nang kết hợp để hình thành các vùng thâm nhiễm lớn trong một trẻ nhỏ, suy giảm miễn dịch thường với bệnh do virus trước đó, trẻ cần phải nhập viện vì tăng nguy cơ biến chứng (ví dụ, hoại tử, viêm màng não, viêm phổi) và tử vong.
● Bệnh nhân được điều trị bằng kháng sinh nhóm macrolid - Không cải thiện khi được điều trị bằng kháng sinh nhóm macrolid có thể cho thấy cần phải thực hiện xét nghiệm chẩn đoán (ví dụ phản ứng chuỗi polymerase) để xác định chẩn đoán nguyên nhân M. pneumoniae và / hoặc điều trị thay đổi bao phủ cho S. pneumoniae hoặc M. pneumoniae kháng macrolide.
+ Đối với bệnh nhân được điều trị ban đầu với macrolide, có thể đạt được mức độ bao phủ phế cầu khuẩn tốt hơn bằng cách bổ sung amoxicillin liều cao, một cephalosporin (ví dụ, cefdinir, cefpodoxime), hoặc clindamycin. Trong số các lựa chọn này, chúng tôi thích amoxicillin liều cao vì nó được dung nạp tốt và không tốn kém. Amoxicillin và cephalosporin có thể cung cấp phổ cho các nguyên nhân tiềm ẩn khác, mặc dù ít phổ biến hơn, ở viêm phổi do vi khuẩn ở trẻ lớn hơn (ví dụ: Haemophilus influenzae type b, H. influenzae không thể phân typ, Moraxella catarrhalis, Streptococcus nhóm A). Clindamycin cung cấp bảo hiểm cho hầu hết các nhiễm trùng S. aureus. Đối với trẻ em có mẫn cảm loại 1 với penicilin, có thể sử dụng fluoroquinolone (ví dụ, levofloxacin, moxifloxacin). Tetracycline (ví dụ, doxycycline) và fluoroquinolones có thể được sử dụng nếu nghi ngờ M. pneumoniae kháng macrolid. Fluoroquinolones cũng cung cấp phổ kháng khuẩn cho hầu hết nguyên nhân vi khuẩn điển hình của CAP ngoại trừ S aureus.

III. CHĂM SÓC HỖ TRỢ :
- Gia đình của trẻ em được quản lý ngoại trú nên được hướng dẫn về quản lý sốt và đau, duy trì đủ nước, và nhận dạng bệnh trở nặng (ví dụ sốt dai dẳng, tăng co rút, sử dụng cơ hô hấp phụ, không ăn được).
● Trẻ bị viêm phổi thường bị sốt và có thể bị đau ngực do viêm màng phổi, có thể dẫn đến thở nông và suy giảm khả năng ho. Chỉ định thuốc hạ sốt và / hoặc thuốc giảm đau có thể được sử dụng để giữ cho trẻ thoải mái. Kiểm soát cơn đau đầy đủ có thể thúc đẩy ho, tạo điều kiện giải phóng khí đạo. Nên tránh các thuốc giảm ho vì không có thuốc nào có hiệu quả trong viêm phổi.
● Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ bị suy hô hấp có thể duy trì đủ nước tốt hơn nếu chất lỏng được cung cấp với khối lượng nhỏ và nhiều lần.
● Hút nhẹ nhàng mũi có thể hữu ích ở trẻ sơ sinh và trẻ em có mũi bị tắc nghẽn bởi dịch tiết mũi.

IV. THEO DÕI:
1. Thời gian của một đợt bệnh:
 - Trẻ em được điều trị thích hợp dần dần cải thiện theo thời gian. Các triệu chứng liên quan đến nhiễm trùng đường hô hấp dưới do virus, đặc biệt là ho, thường giải quyết trong vòng chưa đầy một tháng ở trẻ sơ sinh và trẻ em khỏe mạnh nhưng hiếm khi kéo dài đến ba đến bốn tháng. Ho có thể kéo dài từ 3 đến 4 tháng sau viêm phổi do virus hoặc ho gà. Trẻ em đang hồi phục từ viêm phổi do vi khuẩn điển hình hoặc không điển hình có thể tiếp tục ho trong vài tuần và có khó thở vừa phải khi gắng sức trong hai đến ba tháng.

2. Theo dõi X quang:
 - Theo dõi X quang không cần thiết ở trẻ em không triệu chứng với CAP không biến chứng. Chụp X quang theo dõi 2 đến 3 tuần sau khi hoàn thành liệu trình có thể hữu ích trong việc đánh giá chẩn đoán thay thế hoặc tình trạng trùng khớp ở trẻ bị viêm phổi tái phát, triệu chứng dai dẳng, xẹp phổi nặng, thâm nhiễm bất thường hoặc viêm phổi tròn (tức là tổn thương phổi thâm nhiễm hình cầu).

V. TIÊN LƯỢNG:
 - Hầu hết những đứa trẻ khỏe mạnh bị viêm phổi phục hồi mà không có bất kỳ di chứng lâu dài nào. Mặc dù một số nghiên cứu tiền cứu cho thấy viêm phổi ở trẻ có liên quan đến các triệu chứng hen suyễn sau đó và có thể kéo dài đến tuổi trưởng thành, không rõ liệu điều này có liên quan đến hen suyễn không được phát hiện tại thời điểm bị với viêm phổi hay xu hướng phát triển bệnh hen suyễn sau CAP.

Nguồn: https://doctorplus.club/uptodate/topic.htm?path=community-acquired-pneumonia-in-children-outpatient-treatment.

Bs. Đặng Ngọc - 0973. 387. 024


Thứ Năm, 12 tháng 7, 2018

VIÊM KẾT MẠC

I. GIỚI THIỆU:
- Viêm kết mạc, còn được gọi là bệnh "mắt đỏ", được định nghĩa là viêm của kết mạc. Kết mạc là màng mỏng lót bề mặt bên trong của mí mắt và lòng trắng của mắt (gọi là sclera) (hình 1). Viêm kết mạc có thể ảnh hưởng đến trẻ em và người lớn. Các triệu chứng phổ biến nhất của viêm kết mạc bao gồm một mắt đỏ và xuất tiết dịch.
- Có nhiều nguyên nhân gây viêm kết mạc, bao gồm nhiễm trùng do vi khuẩn hoặc virus, dị ứng hoặc tình trạng không đặc hiệu (ví dụ như dị vật trong mắt). Tất cả các nguyên nhân gây viêm kết mạc gây ra mắt đỏ, mặc dù không phải tất cả mọi người bị mắt đỏ có viêm kết mạc.

II. CÁC DẠNG VIÊM KẾT MẠC:
Có bốn loại viêm kết mạc chính: vi rút, vi khuẩn, dị ứng và không đặ hiệu. Hầu hết các trường hợp viêm kết mạc là do virus ở cả người lớn và trẻ em; tuy nhiên, viêm kết mạc do vi khuẩn thường gặp ở trẻ hơn là ở người lớn.

1.Viêm kết mạc do virut :
-  thường do vi-rút gây ra cảm lạnh thông thường. Một người có thể có triệu chứng của viêm kết mạc đơn thuần, hoặc là một biểu hiện của cảm lạnh, với các hạch bạch huyết sưng (các tuyến), sốt, đau họng và chảy nước mũi.
- Viêm kết mạc do virus rất dễ lây. Bệnh này lây lan qua tiếp xúc, thường là với những vật thể tiếp xúc với dịch tiết của mắt người bệnh. Ví dụ, virus có thể lây truyền khi một người bị nhiễm chạm vào mắt và sau đó chạm vào một bề mặt khác (ví dụ, tay nắm cửa) hoặc dùng chung một vật đã chạm vào mắt (ví dụ, khăn hoặc vỏ gối).
- Các triệu chứng phổ biến nhất của viêm kết mạc do virus bao gồm mẩn đỏ, chảy nước mắt hoặc dịch nhầy, và cảm giác nóng rát, bụi mắt, hoặc bận trong một mắt. Một số người nhử mắt vào buổi sáng sau khi chảy nước do một số dịch tiết nhầy trong suốt cả ngày. Mắt còn lại thường bị nhiễm trong vòng 24 đến 48 giờ sau khi mắt đầu tiên bị viêm.
- Không có cách điều trị viêm kết mạc do virus. Việc phục hồi có thể bắt đầu trong vòng vài ngày, mặc dù các triệu chứng thường trở nên tồi tệ hơn trong ba đến năm ngày đầu tiên, với sự cải thiện dần dần sau một đến hai tuần, tổng thời gian một đợt bệnh là từ hai đến ba tuần. Một số người bị lớp nhử mắt buổi sáng tiếp tục kéo dài đến hai tuần sau khi các triệu chứng đầu tiên xuất hiện, mặc dù vào ban ngày các triệu chứng đỏ, kích thích và chảy nước mắt đã cải thiện nhiều.

2. Viêm kết mạc do vi khuẩn 
- Viêm kết mạc do vi khuẩn rất dễ lây, thường ảnh hưởng đến nhiều thành viên trong gia đình hoặc trẻ em trong lớp học. Viêm kết mạc do vi khuẩn lây lan qua tiếp xúc, thường là với những vật thể tiếp xúc với dịch tiết của người bệnh. Ví dụ, vi khuẩn có thể lây truyền khi một người bị nhiễm chạm vào mắt và sau đó chạm vào một bề mặt khác (ví dụ, tay nắm cửa) hoặc dùng chung một vật đã chạm vào mắt (ví dụ như khăn hoặc vỏ gối).
- Các triệu chứng phổ biến nhất của viêm kết mạc do vi khuẩn bao gồm mắt đỏ và chảy dịch nhử dày từ một mắt, mặc dù cả hai mắt đều có thể bị nhiễm trùng. Nhử mắt có thể có màu vàng, trắng hoặc xanh lá cây và nó thường tiếp tục chảy suốt cả ngày. Mắt bị ảnh hưởng thường bị dính vào buổi sáng.
- Hầu hết các loại viêm kết mạc do vi khuẩn khỏi nhanh chóng và không gây tổn thương vĩnh viễn khi được điều trị bằng thuốc nhỏ mắt hoặc thuốc mỡ kháng sinh.

3. Viêm kết mạc dị ứng:
 - Viêm kết mạc dị ứng là do các chất gây dị ứng trong không khí tiếp xúc với mắt. Các triệu chứng (thường đỏ, chảy nước và ngứa cả hai mắt) có thể đột ngột khởi phát (cấp tính), theo mùa hoặc quanh năm (lâu năm), tùy thuộc vào chất gây dị ứng.

4. Viêm kết mạc không đặc hiệu:

 -  Mắt đỏ và chảy dịch không do nhiễm trùng hoặc dị ứng gây ra. Các nguyên nhân phổ biến nhất bao gồm một trong các nguyên nhân sau.
● Người bị khô mắt có thể bị mắt đỏ hoặc chảy dịch liên tục hoặc gián đoạn.
● Nhiễm hóa chất.
● Dị vật (ví dụ, bụi, lông mi) trong mắt có thể làm mắt đỏ trong 12 đến 24 giờ sau khi dị vật được lấy ra.

III. ĐIỀU TRỊ VIÊM KẾT MẠC:
- Việc điều trị viêm kết mạc phụ thuộc vào nguyên nhân. Vì lý do này, điều quan trọng là phải có chẩn đoán chính xác trước khi bắt đầu điều trị.

1. Điều trị viêm kết mạc do vi rút:
 - Thuốc nhỏ mắt kháng histamine / co mạch tại chỗ có thể giúp giảm kích ứng viêm kết mạc do virus. Những thuốc nhỏ này có sẵn mà không cần toa bác sĩ ở hầu hết các hiệu thuốc. Tuy nhiên, cần chú ý đặc biệt để tránh lây lan nhiễm virus từ mắt này sang mắt khác. Chỉ nhỏ thuốc vào mắt bị ảnh hưởng và rửa tay kỹ sau khi dùng. Tương tự như thuốc cảm lạnh, thuốc chỉ có thể làm giảm các triệu chứng mà không rút ngắn quá trình nhiễm trùng. Một lựa chọn khác là sử dụng chườm ấm hoặc mát, khi cần thiết.
- Sự kích thích và chảy nước mắt có thể trở nên tồi tệ hơn từ ba đến năm ngày trước khi nó được cải thiện, và các triệu chứng có thể kéo dài trong hai đến ba tuần.

2. Điều trị viêm kết mạc do vi khuẩn
 - Viêm kết mạc do vi khuẩn thường được điều trị bằng thuốc nhỏ mắt hoặc thuốc mỡ kháng sinh. Khi bắt đầu sớm, việc điều trị giúp rút ngắn thời gian triệu chứng, mặc dù hầu hết các trường hợp đều tự khỏi mà không cần điều trị gì.

- Người lớn: thường được điều trị bằng thuốc nhỏ mắt hoặc thuốc mỡ kháng sinh trong 5 đến 7 ngày. Đỏ, kích ứng và tiết dịch mắt nên bắt đầu cải thiện trong vòng 24 đến 48 giờ. Nếu không có cải thiện hoặc nếu tình trạng xấu đi trong thời gian này, người đó phải được bác sĩ nhãn khoa đánh giá.

- Người đeo kính áp tròng nên được bác sỹ nhãn khoa đánh giá trước khi bắt đầu điều trị; điều này là để xác nhận chẩn đoán viêm kết mạc và để chắc chắn rằng một tình trạng nghiêm trọng khác liên quan đến việc sử dụng kính áp tròng (nhiễm trùng giác mạc), không có mặt.

- Trẻ em bị viêm kết mạc do vi khuẩn có thể được điều trị bằng thuốc nhỏ mắt hoặc thuốc mỡ kháng sinh. Thuốc mỡ thường được ưu tiên cho trẻ nhỏ và những người gặp khó khăn khi dùng thuốc nhỏ mắt. Thuốc mỡ nên được bôi vào bên trong mí mắt dưới. Ngay cả khi thuốc mỡ không được thoa trực tiếp vào mí mắt, nó thường vẫn có hiệu quả vì nó dính vào mi và được lan truyền bằng việc chớp mắt. Nhìn có thể bị mờ đến 20 phút sau khi sử dụng thuốc mỡ.

IV. ĐI KHÁM BÁC SỸ MẮT KHI:
 - Những người có các dấu hiệu và triệu chứng sau đây có thể có vấn đề nghiêm trọng hơn và cần được bác sĩ nhãn khoa đánh giá ngay lập tức (bác sĩ nhãn khoa hoặc chuyên viên đo mắt).
● Đau mắt
● Khó nhìn rõ
● Khó mở mắt hoặc nhạy cảm với ánh sáng
● Đau đầu dữ dội do buồn nôn
● chấn thương mắt gần đây 
● Sử dụng kính áp tròng


Nguồn : https://www.uptodate.com/contents/conjunctivitis-pink-eye-beyond-the-basics
Dịch và chỉnh sửa: bs Đặng Ngọc
viêm kết mạc do vi khuẩn
Viêm kết mạc do virus



Thứ Tư, 11 tháng 7, 2018

VIÊM PHỔI MẮC PHẢI TẠI CỘNG ĐỒNG (LÂM SÀNG - CHẨN ĐOÁN)

I.GIỚI THIỆU:
 - Viêm phổi do cộng đồng mắc phải (CAP - COMMUNITY- ACQUIRED PNEUMONIA) được định nghĩa là các dấu hiệu và triệu chứng của nhiễm trùng nhu mô phổi cấp tính ở một người mắc bệnh nhiễm trùng trong cộng đồng, được phân biệt với bệnh viêm phổi bệnh viện (hospital acquired pneumonia - HAP) là viêm phổi xảy ra sau 48 giờ nhập viện mà trước đó không có triệu chứng hô hấp hay nhiễm trùng và không có tổn thương mới hay tiến triển trên X quang ngực trước 48 giờ nhập viện.

II. BIỂU HIỆN LÂM SÀNG:
- Các triệu chứng và dấu hiệu viêm phổi có thể mơ hồ, đặc biệt là ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Sự kết hợp của sốt và ho là gợi ý của viêm phổi; những phát hiện về hô hấp khác (ví dụ thở nhanh, thở gắng sức) có thể xảy ra trước khi ho. Ho có thể không phải là triệu chứng đầu tiên vì phế nang có ít thụ thể ho. Ho bắt đầu khi các sản phẩm nhiễm trùng kích thích các thụ thể ho trong đường hô hấp. Các triệu chứng sốt, ho và hô hấp càng kéo dài thì khả năng viêm phổi càng cao.
- Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ có thể biểu hiện khó khăn khi bú, bồn chồn, hoặc uể oải  hơn là ho và / hoặc tiếng thở bất thường. Trẻ sơ sinh, trẻ nhũ nhi và trẻ nhỏ (tức là, <5 đến 10 tuổi) có thể chỉ biểu hiện với sốt và tăng bạch cầu.
- "Viêm phổi đi bộ - walking pneumonia" là một thuật ngữ đôi khi được sử dụng để mô tả tình trạng viêm phổi mà trong đó các triệu chứng hô hấp không ảnh hưởng đến hoạt động bình thường.

III. ĐÁNH GIÁ LÂM SÀNG
 - Đánh giá trẻ bị ho và khả năng bị bệnh đường hô hấp dưới có ba mục tiêu: xác định các hội chứng lâm sàng (ví dụ, viêm phổi, viêm tiểu phế quản, hen suyễn), xem xét tác nhân gây bệnh (vi khuẩn, vi rút), và đánh giá mức độ nghiêm trọng của bệnh. Mức độ nghiêm trọng của bệnh để xem xét làm các xét nghiệm đánh giá bổ sung.

1. Bệnh sử:
 - Các khía cạnh quan trọng của bệnh sử đối với trẻ em bị CAP có thể hữu ích trong việc xác định tác nhân gây bệnh, khả năng nhiễm trùng với một sinh vật có khả năng đề kháng với kháng sinh và mức độ nghiêm trọng của bệnh.

2. Khám lâm sàng:
  - Tòan trạng của trẻ: Ở trẻ nhỏ, việc đánh giá toàn trạng chung bao gồm khả năng tham gia vào các hoạt động thường nhật, ăn, nói của trẻ. Tình trạng tím tái nên được đánh giá ở tất cả trẻ, mặc dù trẻ em có thể bị thiếu oxy mà không có tím tái.
- Sốt: là biểu hiện phổ biến của viêm phổi ở trẻ em. Tuy nhiên, nó không đặc trưng và có thể thay đổi. Trẻ nhỏ có thể bị viêm phổi mà không có sốt có liên quan đến Chlamydia trachomatis hoặc các mầm bệnh khác. Sốt có xu hướng thấp hơn ở trẻ em bị viêm tiểu phế quản so với trẻ bị viêm phổi và thường vắng mặt ở trẻ bị hen suyễn.
 + Sốt có thể là dấu hiệu duy nhất của viêm phổi kín đáo (occult pneumonia) ở trẻ nhỏ có sốt cao. Trong một báo cáo, 26% trong tổng số 146 trẻ em (<5 tuổi) bị sốt ≥39 ° C (102,2 ° F), không có bằng chứng lâm sàng về viêm phổi hoặc các dấu hiệu tại chỗ nào khác, và số lượng bạch cầu ngoại vi ≥20,000 / microL có bằng chứng của viêm phổi trên x quang.
- Thở nhanh (Tachypnea): Trẻ em bị viêm phổi thường có thở nhanh. Trẻ không có thở nhanh là hữu ích trong việc loại trừ viêm phổi. Nhịp thở được đếm đủ một phút, khi trẻ nghỉ ngơi hoàn toàn, tốt nhất là khi trẻ ngủ và không có sốt ( mỗi 1 độ C tăng làm thở tăng lên khoảng 10 nhịp/phút).
 ● Suy hô hấp:
 - Dấu hiệu suy hô hấp bao gồm thở nhanh, thiếu oxy máu (độ bão hòa oxy động mạch ngoại biên [SpO2] <90% ở không khí trong phòng), thở gắng (phập phồng mũi, rút lõm khoang gian sườn, hõm ức, co các cơ hô hấp phụ), ngưng thở và thay đổi trạng thái tinh thần.
- Độ bão hòa oxy nên được đo ở bất kỳ trẻ nào có thở gắng sức, đặc biệt nếu trẻ bị giảm hoạt động hoặc kích động. Trẻ sơ sinh và trẻ em bị thiếu oxy máu có thể không xuất hiện tím tái. Hạ oxy máu là dấu hiệu của bệnh nặng và là dấu hiệu cho nhập viện.
●  Nghe phổi: có thể phát hiện các triệu chứng gợi ý cho viêm phổi hoặc các biến chứng của nó. Các dấu hiệu có thể thấy khi nghe phổi gồm: các tiếng ran, rì rào phế nang giảm,...

3. Các bằng chứng gợi ý nguyên nhân viêm phổi:
- Các triệu chứng lâm sàng đặc trưng có thể gợi ý nguyên nhân viêm phổi do vi khuẩn, vi khuẩn không điển hình hay virus,... Tuy nhiên các triệu chứng thường chồng lấn lên nhau, và khó có thể tin cậy để phân biệt giữa các nguyên nhân. Và có đến 50% có sự đồng nhiễm cả vi khuẩn và virus.
* Vi khuẩn:
 - Viêm phổi do vi khuẩn (điển hình), thường do Streptococcus pneumoniae (phế cầu khuẩn) và ít phổ biến hơn do  tụ cầu vàng (Staphylococcus aureus) và liên cầu nhóm A (A group Streptococcus), mà có thể theo sau các triệu chứng nhiễm trùng đường hô hấp trên vài ngày, bị khởi phát đột ngột, với bệnh nhân sốt và biểu hiện mệt và đôi khi có biểu hiện nhieemc độc. Suy hô hấp từ trung bình đến nặng; nghe phổi có thể nghèo nàn và tập trung, giới hạn trong thùy giải phẫu liên quan. Các dấu hiệu và triệu chứng của nhiễm trùng huyết và đau ngực cục bộ (biểu hiện kích thích màng phổi) gợi ý nhiều hơn về nguyên nhân do vi khuẩn, vì chúng hiếm khi xuất hiện trong viêm phổi không do vi khuẩn. Mặt khác, viêm phổi do vi khuẩn điển hình là khó xảy ra ở trẻ em trên 5 tuổi nếu trẻ có thở khò khè .
- Phế cầu là tác nhân viêm phổi vi khuẩn điển hình hay gặp nhất ở trẻ em mọi lứa tuổi.
● Vi khuẩn không điển hình:
- "Viêm phổi do vi khuẩn không điển hình" do Mycoplasma  hoặc Chlamydia thường xuất hiện đột ngột với những triệu chứng sốt, mệt mỏi và đau cơ; đau đầu; sợ ánh sáng; đau họng; và dần dần ho khan nặng thêm mặc dù các triệu chứng khác cải thiện. Mặc dù khàn giọng có thể thấy trong bệnh do cả hai tác nhân gây ra nhưng nó thường gặp hơn với nhiễm C. pneumoniae. Thở khò khè là một phát hiện thường gặp ở viêm phổi do vi khuẩn không điển hình  và vi rút .
- M. pneumoniae có thể liên quan với một loạt các biểu hiện ngoài phổi. Các biểu hiện ngoài da có thể từ một phát ban ban đỏ nhẹ hoặc nổi mề đay đến hội chứng Stevens-Johnson. Các biểu hiện ngoài phổi khác bao gồm thiếu máu tán huyết, viêm đa khớp, viêm tụy, viêm gan, viêm màng ngoài tim, viêm cơ tim và biến chứng thần kinh.
- Trẻ sơ sinh dưới một tuổi có thể phát triển "viêm phổi không sốt". Viêm phổi không sốt là một hội chứng thường thấy ở trẻ giữa hai tuần và từ ba đến bốn tháng tuổi. Cổ điển gây ra bởi C. trachomatis, nhưng các tác nhân khác, chẳng hạn như cytomegalovirus, Mycoplasma hominis, và Ureaplasma urealyticum, cũng có liên quan. Viêm kết mạc có thể có mặt, hoặc có thể đã từng có tiền sử viêm kết mạc.
Virus:
 - Sự khởi phát của viêm phổi do vi-rút thì dần dần và liên quan đến các triệu chứng đường hô hấp trên trước đó (ví dụ, chảy mũi, nghẹt mũi). Đứa trẻ không có biểu hiện nhiễm độc. Nghe phổi thì thường lan tỏa và cả 2 bên. Trong một nghiên cứu của 98 trẻ em bị viêm phổi, thở khò khè thường gặp ở những bệnh nhân nhiễm virus hơn là viêm phổi do vi khuẩn (43 so với 16%).

X-QUANG THƯỜNG:
1. Chỉ định:
  - X quang phổi thường quy là không cần thiết để xác định chẩn đoán ở trẻ nghi ngờ CAP nếu trẻ nhiễm trùng đường hô hấp dưới không biến chứng nhẹ, đủ tốt để được điều trị ngoại trú. Chỉ định chụp X quang ở trẻ có biểu hiện lâm sàng của viêm phổi bao gồm:
● Bệnh nặng: để xác định chẩn đoán và đánh giá các biến chứng.
● Xác nhận chẩn đoán khi khám lâm sàng không thể đi đến kết luận.
● Nhập viện: để ghi lại sự hiện diện, kích thước và đặc điểm của nhu mô thâm nhiễm và đánh giá các biến chứng tiềm ẩn.
● Tiền sử viêm phổi tái phát.
● Loại trừ các nguyên nhân khác cho suy hô hấp (ví dụ, dị vật, suy tim), đặc biệt ở những bệnh nhân có nền bệnh lý tim phổi.
● Đánh giá các biến chứng, đặc biệt ở trẻ em bị viêm phổi kéo dài và không đáp ứng với điều trị kháng khuẩn.
● Loại trừ viêm phổi ở trẻ nhỏ (3 đến 36 tháng) với sốt> 39 ° C (102,2 ° F) và tăng bạch cầu (≥20.000 bạch cầu [WBC] / microL) ; và trẻ lớn hơn (<10 tuổi) với sốt> 38 ° C (100.4 ° F), ho và tăng bạch cầu (≥15.000 WBC / microL).

- Có một số cảnh báo cần cân nhắc khi quyết định có chụp X quang hay không và liệu X quang có thay đổi việc điều trị hay không. Bao gồm:
● Kết quả chụp X quang ít có giá trị trong chẩn đoán nguyên nhân viêm phổi và phải được sử dụng kết hợp với các đặc điểm lâm sàng khác để đưa ra quyết định điều trị .
● Các biểu hiện trên xquang có thể đi sau so với các khám xét trên lâm sàng.
● Bệnh nhân bị giảm khối lượng máu (do mất nước) có thể có hình ảnh X-quang ngực bình thường trước khi được bồi phụ đủ nước.
● Có sự thay đổi trong đồng thuận giữa các nhà nghiên cứu và các lần nghiên cứu khác nhau.
● Kết quả có thể bị ảnh hưởng bởi thông tin lâm sàng được cung cấp cho bác sỹ chẩn đoán hình ảnh.
● Chụp X quang phổi vơi bệnh nhân ngoại trú không ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng của bệnh.

XÉT NGHIỆM MÁU:
- Việc xét nghiệm máu của trẻ có CAP phụ thuộc vào lâm sàng, bao gồm tuổi của trẻ, mức độ nghiêm trọng của bệnh, biến chứng và liệu trẻ có cần nhập viện hay không.
- Xét nghiệm tổng phân tích tế bào máu và các yếu tố viêm có thể cung cấp thông tin hữu ích cho việc định hướng nguyên nhân, nhưng không bao giờ được sử dụng một mình mà cần kết hợp với các bằng chứng khác. Một kết quả xét nghiệm với bạch cầu bình thường và các yếu tố viêm tăng nhẹ không loại trừ được nguyên nhân do vi khuẩn.
- Xét nghiệm tổng phân tích tế bào máu không cần làm với trường hợp nhiễm trùng hô hấp dưới nhẹ và được điều trị ngoại trú. Trừ khi cần thiết để quyết định liệu pháp kháng sinh. Các kết quả sau có thể gợi ý, tuy nhiên không đủ tin cậy để loại trừ
+ Bạch cầu <15.000G/L gợi ý nguyên nhân không phải vi khuẩn, trừ khi trẻ quá ốm.
+ Bạch cầu >15.000G/L có thể gợi ý do vi khuẩn sinh mủ. Tuy nhiên, M.pneumonia, ifluenza hay adenovirus cũng có thể có bạch cầu cao.
+ Bạch cầu ưu acid ngoại vi tăng có thể gợi ý viêm phổi không sốt ở trẻ sơ sinh.

CHẨN ĐOÁN:
1. Lâm sàng:
- Chẩn đoán viêm phổi cộng đồng nên được xem xét ở trẻ có các biểu hiện về hô hấp dưới, đặc biệt là sốt, ho, thở nhanh, thở gắng và khám phổi bất thường. Trong đó thở nhanh là triệu chứng quan trọng, trẻ không có thở nhanh, gần như loại trừ viêm phổi.
- Ở các quốc gia có nguồn lực hạn chế, nơi có tỷ lệ mắc bệnh viêm phổi cao, một dấu hiệu hô hấp dương tính duy nhất làm tăng tính chắc chắn của viêm phổi. Tổ chức Y tế Thế giới sử dụng thở nhanh (> 60 lần / phút ở trẻ <2 tháng; > 50 lần / phút ở trẻ sơ sinh từ 2 đến 12 tháng; > 40 hơi thở / phút ở trẻ em từ 1 đến 5 tuổi và > 20 lần / phút ở trẻ em ≥5 tuổi) là tiêu chí duy nhất để xác định viêm phổi ở trẻ em bị ho hoặc khó thở .
- Ở các nước phát triển có tỷ lệ viêm phổi thấp hơn, nhiều dấu hiệu hô hấp (ví dụ, tình trạng thiếu oxy, thở rít , mũi phập phồng, thở gắng) là cần thiết để tăng tính chắc chắn của viêm phổi

2. X quang :
- Thâm nhiễm trên X quang ngực xác nhận chẩn đoán viêm phổi ở trẻ em có các biểu hiện lâm sàng tương thích. X quang nên được chỉ định ở trẻ mà chẩn đoán là không chắc chắn và ở những trẻ bị viêm phổi nặng, phức tạp hoặc tái phát .
- Xác nhận chụp X quang là không cần thiết ở trẻ em bị nhiễm trùng đường hô hấp dưới nhẹ, không biến chứng, những người sẽ được điều trị ngoại trú.
- Các phát hiện x quang không thể phân biệt một cách đáng tin cậy giữa các nguyên nhân vi khuẩn, vi khuẩn không điển hình và virus của viêm phổi. X quang nên được sử dụng kết hợp với dữ liệu lâm sàng và vi sinh để đưa ra quyết định điều trị.

3. Chẩn đoán nguyên nhân:
 - Các tác nhân gây bệnh có thể gợi ý bởi đặc điểm trẻ bị nhiễm, lâm sàng, dịch tễ học, và ở một mức độ nào đó, kết quả của các xét nghiệm không đặc hiệu và các phim chụp X quang ngực.
- Các xét nghiệm vi sinh đặc hiệu có thể được sử dụng để xác định chẩn đoán nguyên nhân. Xác nhận chẩn đoán nguyên nhân là không cần thiết ở những bệnh nhân nhẹ có thể được điều trị ngoại trú theo kinh nghiệm. Xác nhận chẩn đoán nguyên nhân nên được thực hiện ở trẻ em được nhập viện hoặc nghi ngờ nhiễm một mầm bệnh bất thường, hoặc mầm bệnh cần điều trị khác với phác đồ kinh nghiệm, để điều trị có thể hướng đến mầm bệnh thích hợp. Chẩn đoán bệnh nguyên cũng là cần thiết ở trẻ em không đáp ứng với liệu pháp ban đầu.

- Ở trẻ < 5 tuổi, các loại virus là nguyên nhân hay gặp nhất. Tuy nhiên, các nguyên nhân vi khuẩn bao gồm, Streptococcus pneumoniae, Staphylococcus aureus, và S. pyogenes cũng là những nguyên nhân quan trọng.
- Trái lại ở trẻ >5 tuổi khỏe mạnh, S. pneumoniae, M. pneumoniae, và Chlamydia pneumoniae là nguyên nhân hay gặp nhất.

Tham khảo:
1. https://www.uptodate.com/contents/pneumonia-in-children-epidemiology-pathogenesis-and-etiology?search=pneumonie&source=search_result&selectedTitle=8~150&usage_type=default&display_rank=8
2. https://www.uptodate.com/contents/community-acquired-pneumonia-in-children-clinical-features-and-diagnosis?search=pneumonie&source=search_result&selectedTitle=6~150&usage_type=default&display_rank=6


Thứ Ba, 10 tháng 7, 2018

PHÁT BAN VÙNG MẶC TÃ

I. TỔNG QUAN:
 - Viêm da, hoặc viêm da tã (hăm tã), là thuật ngữ dùng để mô tả một tình trạng kích thích phát triển trên da được bao phủ bởi tã lót. Đây là một trong những vấn đề về da phổ biến nhất ở trẻ sơ sinh và trẻ em, ảnh hưởng từ 7 đến 35 phần trăm trẻ sơ sinh tại một số điểm. Phát ban vùng tã xảy ra phổ biến nhất ở trẻ từ 9 đến 12 tháng tuổi, nhưng có thể xảy ra bất cứ lúc nào đứa trẻ mặc tã.
- May mắn thay, hầu hết các trường hợp phát ban tã là ngắn ngủi và hồi phục với điều trị tại nhà.

II. CÁC DẠNG BAN TÃ:
 - Có hai loại phát ban tã chính:
● Phát ban gây ra hoặc trở nên tồi tệ hơn do mặc tã.
● Phát ban không liên quan đến việc sử dụng tã lót
- Thường không phải là luôn luôn có thể để cho cha mẹ xác định loại và nguyên nhân của phát ban tã. Trong hầu hết các trường hợp, việc bắt đầu điều trị tại nhà là hợp lý, như được mô tả dưới đây. Nếu phát ban nặng hoặc nặng lên, bạn nên liên hệ với bác sỹ của con bạn

1. Phát ban liên quan đến tã:
 - Phát ban liên quan đến tã có thể do kích ứng, nhiễm trùng nấm men hoặc phản ứng dị ứng. Phát ban liên quan đến tã có thể xảy ra thường xuyên hơn nếu trẻ bị tiêu chảy hoặc gần đây đã uống kháng sinh.


1.1. Viêm da kích ứng (irritant dermatitis):
Image
Hình 1: các vùng da đỏ, tróc vảy, với tổn thương rất ít ở các nếp gấp, đặc trưng của viêm da tã (hăm tã)





















1.2. Nhiễm trùng nấm men (yeast infection):
Image
Hình 2 : các mảng đỏ và mụn mủ thứ phát ở trẻ sơ sinh

 - Viêm da kích ứng là thuật ngữ y học miêu tả da bị đỏ và viêm gây ra bởi bất kỳ chất gây kích ứng nào (thường là nước tiểu hoặc phân với phát ban tã). Viêm da kích ứng là nguyên nhân phổ biến nhất của phát ban tã. Nó thường được nhìn thấy ở mông, bụng dưới, bộ phận sinh dục và đùi trên (hình 1); nếp gấp da thường không bị ảnh hưởng. Các triệu chứng có thể thay đổi từ đỏ nhẹ đến vùng da bị sưng nề, bị tróc, lột hoặc chảy nước


























1.3. Phản ứng dị ứng 
 - Phản ứng dị ứng hoặc sự nhạy cảm với da của chính tã lót là nguyên nhân ít phổ biến hơn của phát ban tã. Dấu hiệu của viêm da tiếp xúc dị ứng bao gồm vùng da đỏ, sẩn cao lên khỏi mặt da, có vảy và ngứa ở vùng tã. Các vùng da tiếp xúc với thuốc nhuộm trên tã có thể trở nên nhạy cảm và phát triển một phản ứng dị ứng. Một số khăn lau em bé có thể chứa chất bảo quản cũng có thể gây phản ứng dị ứng.

2. Phát ban không liên quan đến tã:
 - Các vấn để về da có thể ảnh hưởng đến vùng tã nhưng không gây ra bởi tã bao gồm viêm da tiết bã nhờn, viêm da cơ địa, nhiễm trùng do vi khuẩn, bệnh vẩy nến, ghẻ và những người khác.
2.1. Viêm da tăng tiết bã nhờn (Seborrhea):
 - Viêm da tăng tiết bã nhờn là tình trạng da gây ra các mảng đỏ và có vảy vàng nhờn ở trẻ sơ sinh. Nó thường nằm trong các nếp gấp da giữa đùi và cơ thể, và thường được tìm thấy ở các khu vực khác, bao gồm da đầu (nơi mà nó được gọi là "cradle cap" hay "cứt trâu"), mặt, cổ hoặc nếp gấp da khác (ví dụ: ở nách, trước khuỷu tay, phía sau đầu gối).
Image
Image
Image

2.2. Nhiễm trùng do vi khuẩn:
 - Bệnh chốc lở là nhiễm trùng do vi khuẩn có thể phát triển ở vùng tã, cũng như các vùng khác của cơ thể. Nó thường được gây ra bởi vi khuẩn bình thường sống trên da; nhiễm trùng có thể phát triển khi có vết nứt trên da. Các dấu hiệu của bệnh chốc lở bao gồm các vùng nhỏ (1 đến 2 milimét) chứa đầy dịch màu vàng và các tổn thương có vảy màu mật ong; các tổn thương có thể gây ngứa và / hoặc đau. Bất kỳ trẻ nào có các dấu hiệu và triệu chứng này nên được đánh giá bởi bác sỹ .
Image

2.3. Bệnh vẩy nến:
 - Bệnh vảy nến là tình trạng da gây ra các mảng da đỏ và có vảy khô màu trắng bạc. Trong khu vực tã, có thể không có các vảy trắng bạc do độ ẩm cao.

2.4. Bệnh ghẻ:
 - Bệnh ghẻ là một tình trạng da ngứa mãnh liệt gây ra bởi ký sinh trùng ghẻ đào hang dưới da. Các triệu chứng thường bắt đầu đột ngột và bao gồm các vùng màu đỏ, ghồ lên trên da, và ngứa  ở bụng, kẽ các ngón tay và ngón chân, nách và bộ phận sinh dục. Bệnh ghẻ thường ảnh hưởng đến nhiều thành viên trong gia đình cùng một lúc.

Image


III. CHẨN ĐOÁN PHÁT BAN VÙNG TÃ LÓT:
 - Trong hầu hết các trường hợp, có thể bắt đầu điều trị phát ban vùng tã tại nhà mà không cần gặp các bác sỹ. Tuy nhiên, nếu bạn lo ngại rằng phát ban của con bạn nặng, xấu đi hoặc có liên quan đến các dấu hiệu hoặc triệu chứng khác (ví dụ, khó chịu nhiều, phân máu, sốt, da xuất hiện nhiễm trùng), bạn nên liên hệ với bác sỹ của con bạn ngay lập tức. (Xem 'Khi nào cần tìm sự giúp đỡ' bên dưới.)
- Các xét nghiệm thì thường không cần đến. Nếu bạn đang sử dụng các thuốc điều trị hăm tã tại nhà, hãy mang đến cho bác sỹ xem .

IV. ĐIỀU TRỊ BAN VÙNG TÃ:
 - Điều trị phát ban tã bao gồm các biện pháp kết hợp để mang lại hiệu quả nhất. Các chữ cái ABCDE là một cách hữu ích để nhớ tất cả các biện pháp này:
● A (air) = Cho da vùng tã tiếp xúc với không khí bên ngoài bằng cách không cho trẻ đi trẻ đi tã.
● B (barrier) = tạo hàng rào bảo vệ; sử dụng thuốc dạng hồ hoặc dạng mỡ để bảo vệ da
● C (Clean) = sạch sẽ; giữ cho làn da sạch sẽ.
● D (disposabal diapers) = tã dùng một lần; trong giai đoạn phát ban tã, xem xét sử dụng tã dùng một lần thay vì quần tã.
● E (educate) = giáo dục; tự giáo dục chính mình về cách ngăn ngừa tái phát phát ban tã lót.

1 Thời gian không dùng tã:
 - Cách hiệu quả nhất để điều trị phát ban tã gây kích ứng là giảm tiếp xúc với nước tiểu và phân (ví dụ, bằng cách ngừng hoặc hạn chế sử dụng tã lót). Một cách để làm điều này là cho phép trẻ định kỳ không mặc tã, cho phép da tiếp xúc trực tiếp với không khí. Sử dụng một tấm chống thấm bên dưới trẻ có thể giảm thiểu bẩn.
- Khi trẻ mặc tã, nên thay tã thường xuyên; khoảng thời gian được đề xuất có thể là 2-3 giờ và ngay sau mỗi lần đi tiêu.

2. Tạo hàng rào bảo vệ da bằng các loại thuốc dạng mỡ (oitments) hoặc dạng hồ nhão (pastes) :
 - Thuốc mỡ hoặc hồ nhão làm da cũng có thể giúp điều trị hoặc ngăn ngừa phát ban tã gây kích ứng. Các thuốc mỡ hoặc hồ nhão nên được sử dụng mỗi khi thay tã và có thể được phủ một lớp mỏng dầu jelly (petroleum jelly) để tránh thuốc dính vào tã. Các thuốc mỡ hoặc hồ nhão nên được dùng kéo dài và nên dính vào các khu vực da bị kích thích hoặc bị nứt. Và không cần thiết phải làm sạch hoàn toàn thuốc mỡ hoặc hồ nhão ở da các lần thay tã.
- Các loại thuốc dạng dung dịch (lotions) và dạng kem (creams) không có hiệu quả như thuốc mỡ (ointment) hoặc pastes và không được khuyến cáo. Ngoài ra, các sản phẩm có chứa chất bảo quản, nước hoa hoặc các chất phụ gia khác không được khuyến cáo vì chúng có thể gây kích ứng da hơn nữa. Điều quan trọng là phải đọc kỹ nhãn thành phần của tất cả các sản phẩm tã.
- Hầu hết các sản phẩm điều trị hăm tã chứa các thành phần như oxit kẽm và petrolatum, nó tạo thành một hàng rào bảo vệ da chống lại ẩm ướt; một số cũng chứa lanolin, paraffin hoặc dimethicone. Các thương hiệu mẫu có chứa các thành phần này bao gồm Desitin, Triple Paste, A & D Ointment và Balmex. White petrolatum (tên thương hiệu: Vaseline) là một lựa chọn rẻ tiền.
Thuốc dạng bột (powders) :
- Các sản phẩm này có chứa bột talc hoặc tinh bột ngô (corn starch) có thể giảm ma sát và độ ẩm. Tuy nhiên, dạng bột thường không được khuyến cáo như là một điều trị cho phát ban tã vì trẻ có thể vô tình hít vào chúng.

3. Điều trị bằng thuốc kháng nấm:
 - Điều trị kháng nấm có thể được kê toa nếu trẻ được chẩn đoán nhiễm trùng nấm men. Không khuyến cáo nếu không có tư vấn của bác sỹ. Thuốc kháng nấm có sẵn dưới dạng kem, thuốc mỡ hoặc bột. Việc điều trị thường được dùng hai hoặc ba lần mỗi ngày và có thể được bôi thuôc kháng nấm sau đó bôi một loại thuốc mỡ hoặc thuốc hồ nhão lên để tạo hàng rào bảo vệ da, cho đến khi phát ban hết.

4. Thuốc mỡ steroid:

 - Nếu da của trẻ bị viêm nặng, bác sỹ có thể đề nghị thuốc mỡ steroid không kê đơn, chẳng hạn như hydrocortisone 1%. Thuốc được bôi một lớp mỏng cho da bị kích thích hai lần mỗi ngày và không quá một tuần. Thuốc mỡ steroid mạnh hơn hoặc dành cho người lớn không được khuyến cáo cho trẻ em mà không có lời khuyên của bác sĩ. Kem steroid không được khuyến cáo vì các thành phần trong kem có thể gây kích thích.

5.Thuốc kháng sinh:

 - Nếu trẻ phát triển các dấu hiệu hoặc triệu chứng nhiễm trùng da. Nếu cần thiết, bác sĩ có thể kê đơn thuốc mỡ kháng sinh hoặc thuốc kháng sinh uống. Các loại kem hoặc thuốc mỡ kháng sinh không kê toa (tên thương hiệu mẫu: Neosporin, Bacitracin) không được khuyến cáo vì chúng chứa các thành phần như neomycin và bacitracin, mà nhiều trẻ em bị dị ứng.

V. PHÒNG NGỪA :
 - Có thể làm giảm nguy cơ phát ban tã bằng cách làm theo một số gợi ý vệ sinh cơ bản:
● Còn chưa rõ tã vải hoặc tã dùng một lần vượt trội trong việc ngăn ngừa phát ban tã hay không. Dù lựa chọn loại nào, thay tã thường xuyên có thể làm giảm tiếp xúc giữa da và nước tiểu hoặc phân.
● Trong khi bị phát ban tã, tã dùng một lần được khuyến cáo vì chúng được thấm hút cao và được thiết kế đặc biệt để giảm thiểu tiếp xúc da với ẩm ướt.
● Nếu tã vải được sử dụng, tránh sử dụng quần nhựa để che tã. Tã vải nên được rửa sạch trong nước nóng với thuốc tẩy.
● Làm sạch da trong vùng tã nhẹ nhàng và cẩn thận. Làm sạch quá mức có thể gây ra hoặc làm trầm trọng thêm kích ứng và làm chậm việc chữa lành da. Làm sạch nhẹ nhàng bằng nước ấm và vải mềm thường đủ. Nếu muốn dùng xà phòng, một sản phẩm nhẹ, không có mùi thơm (tên thương mại như: Dove sensitive hoặc Cetaphil) được khuyên dùng.

● Nếu sử dụng khăn lau em bé, hãy chọn một thương hiệu không có cồn và không có mùi thơm. Khăn lau em bé không được khuyến khích nếu da đang bị kích ứng hoặc phát triển các vết loét hở. Nếu phát ban tã có vẻ không được cải thiện, không nên dùng khăn lau em bé, vì một số khăn lau em bé có thể gây phản ứng dị ứng da.
● Phân khô có thể được làm bong ra bằng dầu khoáng (mineral oil) được bôi vào một quả bóng bằng cotton.

● Da bị lột hoặc nứt có thể được làm sạch bằng cách sử dụng một chai bóp bằng nhựa chứa đầy nước ấm. Cách khác, một chiếc khăn có thể được ngâm trong nước ấm và vắt lên da. Để tránh ma sát không cần thiết, da nên được vuốt nhẹ bằng khăn mềm.

VI. KHI NÀO BẠN CẦN TRỢ GIÚP:
 - Nếu trẻ bị sốt (nhiệt độ trên 100.4 ° F hoặc 38 ° C) hoặc có phân máu, thay đổi tích chất ướt hoặc bẩn của tã (ví dụ: táo bón, tiêu chảy, đi tiểu thường xuyên, vv), hoặc bất kỳ dấu hiệu hoặc triệu chứng đáng lo ngại nào khác, phụ huynh nên liên lạc với bác sỹ nhi.

- Ngoài ra, nếu trẻ sơ sinh hoặc trẻ bị phát ban tã không cải thiện sau vài ngày hoặc nếu trẻ phát triển mụn nước hoặc vết loét đầy mủ, phụ huynh nên liên hệ với bác sỹ nhi.

Thứ Bảy, 7 tháng 7, 2018

HIỂU ĐÚNG VỀ CHỐNG CHỈ ĐỊNH TIÊM VẮC-XIN


I. CÁC NGUYÊN TẮC CHUNG CHO HẦU HẾT CÁC LOẠI VẮC- XIN:

1. Chống chỉ định:
- Người có tiền sử phản vệ hoặc phản ứng quá mẫn nghiêm trọng  với vắc-xin hoặc các thành phần của vắc-xin là chống chỉ định tuyệt đối với các liều vắc-xin sau đó.

2. Các thận trọng khi tiêm vắc-xin gồm:
- Với các vắc-xin sống giảm độc lực (như, thủy đậu, sởi-quai bị- rubella, rotavirus,...): Những người bị suy giảm miễn dịch nặng thường không nên chủng ngừa vaccin sống giảm độc lực. Bởi vì nguy cơ lý thuyết cho thai nhi, phụ nữ được biết là có thai nói chung không nên tiêm vắc-xin virus sống giảm độc lực.
- Trong khi trẻ đang có một bệnh cấp tính vừa hoặc nặng có hoặc không có sốt là một thận trọng cho chủng ngừa của tất cả các loại vắc-xin. Quyết định chủng ngừa hoặc trì hoãn tiêm chủng vì một căn bệnh cấp tính hiện tại hoặc gần đây phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng và nguyên nhân của tình trạng này. Sự an toàn và hiệu quả của việc chủng ngừa những người bị bệnh nhẹ đã được ghi nhận.
-  Chủng ngừa nên được hoãn lại cho những người bị bệnh cấp tính vừa hoặc nặng. Thận trọng này nhằm tránh gây nhầm lẫn chẩn đoán giữa các biểu hiện của bệnh lý có từ trước và các tác dụng phụ có thể có của việc chủng ngừa hoặc làm tăng các tác dụng phụ của vắc-xin trên bệnh lý có từ trước. Sau khi được sàng lọc chống chỉ định, những người bị bệnh cấp tính vừa hoặc nặng nên được chủng ngừa ngay khi bệnh cấp tính đã được cải thiện. Các nghiên cứu chỉ ra rằng việc không chủng ngừa cho trẻ bị bệnh nhẹ có thể cản trở các nỗ lực tiêm chủng.
  Nói chung, việc chủng ngừa nên được hoãn lại khi có các thận trọng. Tuy nhiên, tiêm chủng có thể được chỉ định trong sự hiện diện của các thận trọng nếu lợi ích bảo vệ của vắc-xin vượt quá nguy cơ phản ứng bất lợi.

3. Các tình huống bị hiểu lầm là chống chỉ định tiêm vacxin:
Các tình huống sau đây không phải là chống chỉ định. Trẻ sơ sinh có các điều kiện này nên được chủng ngừa:
      • Dị ứng hoặc hen suyễn (ngoại trừ nếu có dị ứng được biết đến với một thành phần cụ thể của thuốc chủng  ngừa được đề cập ở trên);
      • Bất kỳ bệnh nhẹ nào, chẳng hạn như nhiễm trùng đường hô hấp hoặc tiêu chảy với nhiệt độ dưới 38,5 ° C;
      • Tiền sử gia đình có các phản ứng phụ bất lợi sau khi chủng ngừa;
      • Tiền sử gia đình co giật, động kinh;
      • Đang điều trị bằng thuốc kháng sinh;
      • Đã biết hoặc nghi ngờ nhiễm HIV không có dấu hiệu và triệu chứng của AIDS;
      • Trẻ được bú sữa mẹ;
      • Các bệnh mãn tính như các bệnh mãn tính về tim, phổi, thận hoặc gan
      • Các tình trạng thần kinh ổn định, chẳng hạn như bại não hoặc hội chứng Down;
      • Sinh non hoặc thấp cân (không nên hoãn tiêm chủng);
      • Phẫu thuật gần đây hoặc sắp xảy ra;
      • Suy dinh dưỡng;
      • Tiền sử vàng da khi sinh

II. MỘT SỐ TÌNH HUỐNG CỤ THỂ CHO MỘT SỐ LOẠI VẮC-XIN:

1. Vắc-xin MMR ( sởi - quai bị - rubella là vác xin virus sống giảm độc lực):
- Đang mang thai, hoặc nghĩ rằng có thể đang mang thai. Phụ nữ có thai nên đợi để chủng ngừa MMR cho đến sau khi họ không còn mang thai nữa. Phụ nữ nên tránh mang thai ít nhất 1 tháng sau khi chủng ngừa MMR.
- Có hệ miễn dịch suy yếu do bệnh (như ung thư hoặc HIV / AIDS) hoặc các phương pháp điều trị (như xạ trị, liệu pháp miễn dịch, steroid hoặc hóa trị).
- Có bố hoặc mẹ hoặc anh chị em ruột bị các vấn đề về hệ thống miễn dịch.
- Đã từng có một tình trạng làm cho trẻ bị thâm tím hoặc chảy máu dễ dàng.
- Gần đây đã có truyền máu hoặc nhận các sản phẩm máu khác. Bạn có thể được khuyên nên hoãn tiêm chủng MMR sau 3 tháng hoặc lâu hơn.
- Có bệnh lao.

2.  PCV13 (vacxin chống lại 13 typ phế cầu)
- Có tiền sử phản ứng nặng với một loại thuốc chủng ngừa phế cầu khuẩn trước đó là PCV7, hoặc bất kỳ loại thuốc chủng nào có chứa độc tố bạch hầu (ví dụ, DTaP)

3. Vắc- xin Rotavirus ( sống giảm độc lực) :
- Trẻ bị “suy giảm miễn dịch nặng kết hợp” (SCID) không nên chủng ngừa rotavirus.
- Những trẻ sơ sinh bị tắc ruột (intussusception) không nên chủng ngừa rotavirus.
- Kiểm tra với bác sĩ của bạn nếu hệ thống miễn dịch của bé bị suy yếu vì:
+ HIV / AIDS, hoặc bất kỳ bệnh nào khác ảnh hưởng đến hệ miễn dịch.
+ Điều trị bằng thuốc như steroid,
+ Ung thư, hoặc điều trị ung thư bằng tia X hoặc bằng thuốc.

4. Vắc xin thủy đậu ( sống giảm độc lực)
- Không nên chủng ngừa thủy đậu nếu đã từng có phản ứng đe dọa tính mạng với gelatin hoặc neomycin kháng sinh.
- Phụ nữ mang thai không nên chủng ngừa thủy đậu. Họ nên chờ đợi để chủng ngừa thủy đậu cho đến sau khi họ sinh con. Phụ nữ không nên mang thai trong vòng 1 tháng sau khi chủng ngừa thủy đậu.
-  Những người có các điều kiện sau nên kiểm tra với bác sĩ của họ về việc liệu họ có nên chủng ngừa thủy đậu hay không :
+ Bị HIV / AIDS hoặc một căn bệnh khác ảnh hưởng đến hệ miễn dịch
+ Đang được điều trị bằng các loại thuốc ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch, chẳng hạn như steroid, trong 2 tuần hoặc lâu hơn
+ Có bất kỳ loại ung thư nào, hoặc đang điều trị ung thư bằng xạ trị hoặc thuốc.
+ Những người mới được truyền máu hoặc các sản phẩm từ  máu khác nên hỏi bác sĩ của họ khi họ có thể chủng ngừa thủy đậu.

5. Vắc-xin ho gà:
- Những người có tiền sử bệnh não trong vòng 7 ngày sau khi dùng liều vắc-xin có chứa ho gà trước đó mà không có một nguyên nhân có thể xác định khác sẽ không nên tiêm liều bổ sung vắc-xin có chứa ho gà.

Tham khảo:
1. https://www.cdc.gov/vaccines/hcp/acip-recs/general-recs/contraindications.html
2. https://www.cdc.gov/vaccines/hcp/vis/vis-statements/rotavirus.html
3. https://www.cdc.gov/vaccines/hcp/vis/vis-statements/mmr.html
4. https://www.cdc.gov/vaccines/vpd/varicella/public/index.html
5. https://www.cdc.gov/vaccines/hcp/vis/vis-statements/pcv13.html

Thứ Tư, 4 tháng 7, 2018

SỮA BÒ

I. TẠI SAO NÊN ĐỢI SAU 1 TUỔI HÃY CHO CON DÙNG SỮA BÒ:
- Trẻ không thể tiêu hóa sữa bò hoàn toàn và dễ dàng như sữa mẹ hoặc sữa công thức. Sữa bò bao gồm nồng độ cao protein và chất khoáng, có thể gây gánh nặng cho thận còn non nớt của trẻ.
- Sữa bò không có lượng đúng về sắt, vitamin C, và các dưỡng chất cho trẻ sơ sinh. nó có thể gây thiếu máu thiếu sắt cho trẻ, do protein sữa bò có thể kích thích niêm mạc ruột, dẫn đến đi ngoài phân có máu. Và sữa bò cũng không cung cấp các chất béo tốt nhất cho sự lớn lên của trẻ.

II. TẠI SAO TRẺ NÊN BẮT ĐẦU UỐNG SỮA BÒ:
- Sữa là nguồn thực phẩm giàu Calcium, giúp cho xương và răng chắc khỏe và còn điều hòa đông máu cũng như kiểm soát hoạt động co cơ. Sữa còn cung cấp protein cho sự lớn lên của trẻ, và carbohydrates cho trẻ năng lượng trẻ cần cho hoạt động thường ngày. Ngoài ra nếu trẻ nhận đủ calcium từ nhỏ, có bằng chứng thấy rằng trẻ sẽ ít nguy cơ bị tăng huyết áp, đột quỵ, ung thư đại tràng và gãy xương hông sau này.

3. Tôi có cần ngừng cho con bú khi con tôi bắt đầu uống sữa bò không?
- Không cần phải cai sữa cho con bạn sau khi bạn giới thiệu sữa bò. Miễn là cả mẹ và con đều thích, viện hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ (AAP) nói rằng bạn nên tiếp tục cho con bú sau sinh nhật đầu tiên của con bạn.

4. Con nên uống bao nhiêu sữa?
- Theo AAP, bé 1 tuổi của bạn có thể nhận đủ canxi và vitamin D từ 8 đến 12 ounce hay 240 - 360ml (1 đến 1,5 cốc) sữa bò - hoặc số lượng tương đương các sản phẩm từ sữa khác, như sữa chua hoặc pho mát. Đến 2 tuổi, con quý vị nên uống 16 ounce (480ml), hoặc 2 ly sữa bò hoặc các sản phẩm từ sữa khác mỗi ngày.
- Tuy nhiên, đừng cho con bạn uống hơn 32 ounce hay 950 ml (4 cốc) sữa mỗi ngày nếu không trẻ có thể không có chỗ cho các thực phẩm khác mà bé cần cho chế độ ăn lành mạnh. Nếu trẻ vẫn còn khát, hãy cho trẻ uống nước.

5.Tôi có thể cho bé sữa không béo hoặc sữa giảm béo?
- Trong hầu hết các trường hợp câu trả lời là chưa. AAP khuyến cáo cho trẻ 1 tuổi uống sữa toàn phần trừ khi chúng có nguy cơ béo phì cao. Trẻ em trong độ tuổi này cần hàm lượng chất béo cao trong sữa toàn phần để duy trì cân nặng bình thường và giúp cơ thể hấp thụ vitamin A và D. Nồng độ protein và khoáng chất trong sữa không béo cũng quá cao đối với trẻ em ở độ tuổi này. Khi con bạn lên 2 tuổi, bạn có thể quyết định chuyển bé sang sữa giảm béo hoặc không béo miễn là bé phát triển tốt.
- Các ngoại lệ có thể xảy ra: Bác sĩ của con bạn có thể khuyên bạn nên cho trẻ uống sữa giảm béo (2%) sau tuổi 1 nếu bạn thừa cân hoặc béo phì hoặc có tiền sử gia đình béo phì, cholesterol cao hoặc bệnh tim mạch.

6. Bé của tôi dường như không muốn sữa bò. Làm thế nào để bé có thể thử nó?
- Một số trẻ chập chững biết đi uống sữa bò ngay lập tức, nhưng những bé khác thì lại không vì sữa bò có kết cấu, hương vị và thậm chí nhiệt độ khác với sữa mẹ.
- Nếu bé nhà bạn như vậy hãy thử trộn sữa bò với sữa mẹ hoặc sữa bột vào lúc đầu. (Thử một phần sữa cho ba phần sữa mẹ hoặc sữa bột). Sau đó, từ từ thay đổi tỷ lệ cho đến khi bé uống 100% sữa bò.
- Nó có thể là một thách thức để đáp ứng các khuyến nghị dinh dưỡng về sữa hoặc các sản phẩm từ sữa nếu con bạn không quan tâm đến chúng. Nhưng có nhiều cách để sữa vào trong chế độ ăn uống của con bạn. Ví dụ:
    + Thêm sữa vào ngũ cốc của trẻ.
    + Cho trẻ sữa chua, phô mai, bánh pudding, custard, hoặc các đồ ăn nhẹ.
    + Làm súp với sữa thay vì nước.
    + Thêm nước sốt từ sữa vào thịt hầm.

7. Nếu con tôi không dung nạp được sữa hoặc không thể ăn được vì chúng tôi là những người ăn chay thì sao?
- Bất kể lý do gì mà con bạn không thể nhận được canxi và vitamin D từ sữa và các sản phẩm từ sữa khác, bác sĩ nhi khoa của bạn có thể khuyên bạn nên bổ sung sữa đậu nành đã thêm canxi và vitamin D hoặc bổ sung canxi và vitamin D.

8. Tôi có nên mua sữa hữu cơ (organic) hoặc không có hormone (hormone-free) cho con tôi không?
- Không có bằng chứng kết luận rằng những loại sữa này tốt hơn cho trẻ em, và không có hại gì trong chúng. (Sữa hữu cơ có khuynh hướng đắt tiền hơn.) Đọc về các hormone tăng trưởng trong sữa và thực phẩm hữu cơ để giúp bạn đưa ra quyết định.
- Tuy nhiên, AAP cảnh báo chống lại việc cho con bạn sữa "thô" hoặc chưa tiệt trùng. Nếu không có thanh trùng, sữa có thể chứa vi khuẩn hoặc ký sinh trùng có hại có thể gây ra các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng.

9. Phải làm sao nếu con tôi dị ứng sữa?
- Các triệu chứng của phản ứng dị ứng với sữa bao gồm sưng môi, nổi mề đay, nôn mửa, hoặc máu trong phân. Những triệu chứng này sẽ xuất hiện trong thời gian ngắn sau khi bé tiếp xúc với sữa. Nếu con của bạn đã uống sữa công thức từ đậu nành (soy formula) hoặc công thức không gây dị ứng (hypoallergenic formula), hãy kiểm tra với bác sĩ nhi khoa của mình trước khi giới thiệu sữa bò. Tin tốt là hầu hết trẻ em bắt đầu hết dị ứng ở 2 tuổi .

Tham khảo:
1. https://www.babycenter.com/0_cows-milk-when-and-how-to-introduce-it_1334703.bc
2. https://www.parents.com/baby/feeding/solid-foods/introduce-cows-milk/



Thứ Hai, 2 tháng 7, 2018

CÁC LỢI ÍCH CỦA "TUMMY TIME" (THỜI GIAN CHO CON NĂM SẤP)

I. LỢI ÍCH CỦA "TUMMY TIME - THỜI GIAN NẰM BỤNG)
- Đặt trẻ sơ sinh ở tư thế nằm sấp giúp ngăn ngừa hội chứng đầu phẳng và tăng cường cơ cổ, thân và vai, cũng như hai tay.
- Khi tôi học  bác sĩ nhi khoa, thời gian nằm bụng không thực sự là khái niệm, nhưng giờ đây nó nằm trong danh sách lời khuyên mà chúng tôi đưa cho từng phụ huynh của một đứa trẻ, và giống như những lời khuyên nhi khoa khác về các chủ đề đơn giản, nó bao gồm, các chỉ dẫn về an toàn và vai trò quan trọng thiết yếu của tương tác bố mẹ với con.
- Tummy Time đã trở thành một trong các khuyến cáo trọng tâm của bác sĩ nhi khoa vì tầm quan trọng của chiến dịch "Back to Sleep - Nằm ngửa để ngủ" (bây giờ là chiến dịch "Safe to Sleep - An toàn để ngủ ), đã giảm đáng kể tỷ lệ mắc hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh. Nhưng khi nó trở thành thói quen để đặt trẻ nằm ngửa, các bác sĩ ghi nhận sự gia tăng về hội chứng đầu bẹt, trẻ sơ sinh có các vệt phẳng trên đầu, đôi khi ở phía sau đầu, đôi khi không đối xứng ở bên này hay bên kia của đầu.
- Amy Leung, một chuyên viên vật lý trị liệu nhi khoa Đại học Queensland ở Úc, đã nghiên cứu tác động của tư thế đặt trẻ đến sự phát triển của hội chứng đầu bẹt ở trẻ nhỏ. Nghiên cứu năm 2017 nhận thấy rằng đó là yếu tố nguy cơ đáng kể nếu cha mẹ nhận thấy rằng trẻ sơ sinh từ 3 đến 9 tuần tuổi có "sở thích" quay đầu sang một bên nhiều hơn hẳn bên còn lại.
- Vì trẻ sơ sinh phải nằm ngửa để ngủ một cách an toàn, sau đây là những gì trẻ sơ sinh làm khi thức giấc. Những gì cha mẹ cần phải làm, Tiến sĩ Leung nói, là "cố gắng cắt giảm thời gian trẻ nằm ngửa khi em bé tỉnh táo." Đặt em bé nghiêng sang hai bên trong khi bé đang thức là đặc biệt tốt cho kiểm soát đầu, bà cho biết, trong khi đặt trẻ nằm ngửa giúp sự phát triển vận động. Giữ trẻ đứng thẳng cũng tốt, bà nói, và trên tất cả, "thông điệp quan trọng nhất là việc thay đổi vị trí cho trẻ."
- Đu đưa và lúc lắc cũng có thể giúp một em bé tận hưởng các vị trí khác nhau và ưa thích sự di chuyển. Và đối với những trẻ sơ sinh phát triển hội chứng đầu bẹt nặng, mũ bảo hiểm  (corrective helmets) thường được khuyến cáo, mặc dù đã có những câu hỏi được nêu ra về mức độ hiệu quả của chúng. Nếu cha mẹ nhận thấy rằng trẻ hay nghiêng đầu về một bên, tốt hơn là cố gắng ngăn chặn nó ngay từ đầu, Tiến sĩ Leung nói.
- Anne Zachry, chủ tịch khoa trị liệu nghề nghiệp tại Trung tâm khoa học sức khỏe Đại học Tennessee, trước tiên đã quan tâm đến việc trẻ dành thời gian nằm sấp của mình khi cô làm việc như một nhà trị liệu nghề nghiệp với các em học sinh được giới thiệu đến vì chữ viết tay của trẻ kém. Cô lưu ý rằng nhiều trẻ trong số đó có yếu cơ thân mình và khó kiểm soát vai và cánh tay của họ.
Cô đã làm một nghiên cứu không chính thức, gửi bảng câu hỏi về nhà cho cha mẹ bé, và thấy rằng "phần lớn những đứa trẻ có vấn đề về vận động cơ và chữ viết tay không có thời gian nằm sấp." Hầu hết trong số họ đã bỏ qua giai đoạn bò, cô nói.
- "Thông điệp lớn nhất là bắt đầu "tummy time" ngay sau khi bạn  ra viện và cho trẻ về nhà" Tiến sĩ Zachry nói. Một cách tốt để bắt đầu là  bạn hãy nằm ngửa và đặt em bé lên bụng, hoặc trên ngực mình, để “mắt nhìn mắt” với bé".
- Trong thời gian nằm sấp, trẻ đang sử dụng các cơ cổ, thân và vai của trẻ, và còn cả các tay của bé," Tiến sĩ Zachry nói. " trẻ bắt đầu đẩy mình lên để nhìn xung quanh, vận động các cơ bắp tạo nền tảng cho kỹ năng vận động tốt sau này, và trải nghiệm được các cảm nhận khác nhau," khi trẻ nhìn thế giới từ những khung cảnh mới.
- Một số trẻ sơ sinh khó chịu khi được đặt nằm sấp lúc đầu. "Lý do tôi tin rằng hầu hết trẻ sơ sinh chống lại nó là do chúng có khó khăn với việc giữ đầu," Tiến sĩ Zachry nói. Một số có thể thấy thích hơn khi được đặt trên ngực, bụng hoặc đùi của cha mẹ, ít nhất là để bắt đầu.
- Và điều quan trọng nhất bạn có thể làm để giúp con bạn tận hưởng thời gian nằm sấp là, để bé xuống sàn, mang một món đồ chơi, tạo một số tiếng ồn, đọc lớn tiếng, làm điều gì đó để làm cho bé thấy thú vị và tương tác.
Vì vậy, hãy chắc chắn rằng em bé của bạn ngủ an toàn, ở tư thế nằm ngửa, trong một môi trường an toàn. Và bắt đầu từ rất sớm, hãy đảm bảo rằng một vài thời gian thức giấc của bé là thời gian nằm sấp (nằm bụng), kết thúc thởi gian này với việc cha mẹ quan sát, tương tác và chơi cùng bé.
"Bạn cần phải xuống đó và giải trí, giải trí, giải trí", Tiến sĩ Zachry nói. Sau tất cả, ngoài các điểm về tăng cường những cơ và nâng đầu trẻ, trẻ còn nhận được một cái nhìn tốt ở thế giới xung quanh đầy thú vị.

II. CÁC HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN TUMMY TIME CHO BÉ:
1. Tummy time sẽ bắt đầu khi bé mới sinh, theo AAP. Bắt đầu bằng cách đặt trẻ nằm sấp trên ngực hoặc trên đùi của bạn trong vài phút tại một thời điểm trẻ quen với vị trí đó. Không làm điều đó ngay sau khi bú - áp lực lên bụng có thể khiến trẻ trớ - lý tưởng là khi trẻ thức và lanh lẹ nhất, chẳng hạn như sau khi thay tã hoặc sau khi ngủ dậy.
2. Ở thời điểm bắt đầu, bé sơ sinh nên thực hiện 2-3 phút mỗi lần mỗi ngày. Khi trẻ lớn hơn và mạnh mẽ hơn, dần dần tăng thời gian mỗi lần lên, và  đến tổng cộng 20 phút mỗi ngày.
3. Khoảng 4 tháng, bé có thể nhấc ngực ra khỏi sàn và dựa vào khuỷu tay của mình với đầu thẳng đứng. Trẻ thậm chí có thể nhấc cánh tay khỏi sàn nhà, cong lưng và đá chân. Khi bé duỗi và đẩy xuống sàn, bé có thể vô tình nghiêng người sang một bên, ngã xuống, và lăn từ sấp sang ngửa. Đừng lo lắng; điều đó là bình thường. Vào lúc 5 hoặc 6 tháng, trẻ sẽ bắt đầu xoay quanh bụng và dùng cánh tay để đẩy người ra trước hoặc sang hai bên.
4. Nếu trẻ không thích và kháng cự lại, hãy cố gắng giữ trẻ khoảng 3 phút, nếu trẻ vẫn từ chối, hãy dừng lại và tiếp tục các lần sau, tăng từ từ thời gian của trẻ lên.
5. Luôn luôn nhớ quan sát, vui chơi và tương tác với trẻ ( bằng hành động, lời nói và các đồ chơi,...) để trẻ luôn cảm thấy thú vị.
6. Nếu trẻ mệt mỏi và ngủ khi đang nằm sấp, hãy đặt trẻ lại tư thế nằm ngửa. Luôn nhớ rằng không bao giờ được đặt trẻ sơ sinh ngủ ở tư thế nằm sấp, vì có thể đặt trẻ vào nguy cơ của hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh.
( XEM VIDEO Ở ĐƯỜNG LINK 3)

Tài liệu tham khảo:
1. https://mobile.nytimes.com/2018/06/18/well/the-benefits-of-tummy-time.html
2. https://www.parents.com/baby/development/physical/tummy-time-guide/
3.https://www.babycentre.co.uk/v25014659/how-to-do-tummy-time-with-your-baby-video

Chủ Nhật, 1 tháng 7, 2018

BỆNH CHÂN - TAY - MIỆNG

I. GIỚI THIỆU:
- Tay, chân, và miệng (HFMD - hand foot mouth disease) là một hội chứng lâm sàng đặc trưng bởi các tổn thương dạng mụn nước ở niêm mạc miệng, phát ban dát, hoặc nổi mụn ở bàn tay và bàn chân (và có thể là các vị trí khác). HFMD  là một trong những bệnh phát ban do virus dễ nhận biết nhất ở trẻ em và người lớn. HFMD lần đầu tiên được mô tả trong một vụ dịch mùa hè xảy ra ở Toronto, Canada năm 1957 và do coxsackievirus A16 gây ra. Kể từ đó, ít nhất 15 chủng enterovirus khác đã được chứng minh là gây ra bệnh TCM, phổ biến nhất là Coxsackievirus týp A.
Coxsackievirus A16 và enterovirus A71 là các typ thường gặp nhất với HFMD và chịu trách nhiệm cho phần lớn các đợt bùng phát lớn. Enterovirus A71 có liên quan đến các đợt bùng phát liên quan đến hàng ngàn người ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Bắt đầu từ năm 2008, coxsackievirus A6 ngày càng được báo cáo là nguyên nhân của sự bùng phát dịch bệnh HFMD trên toàn thế giới.

II. SINH LÝ BỆNH:
 - Nhiễm trùng enterovirus ở người xảy ra sau khi nuốt vi rút từ đường tiêu hóa hoặc đường hô hấp trên của những người bị nhiễm bệnh (tức là thông qua việc nuốt phải các chất trong phân, dịch tiết miệng, hoặc, đối với một số typ, tiết dịch đường hô hấp của người bệnh). Nhiễm enterovirus ở người cũng có thể xảy ra sau khi tiếp xúc với dịch tiết từ các mụn nước người bệnh.
- Sau khi nuốt vào, các enterovirus nhân rộng trong các mô bạch huyết dưới niêm mạc của ruột non và, cả một phần nhỏ hơn tại hầu họng. Sau khi sao chép, enterovirus lây lan đến các hạch bạch huyết khu vực. Sự sao chép tại các địa điểm này dẫn đến một lượng nhỏ virus vào máu và đi khắp cơ thể, dẫn đến nhiễm các mô nội mô và nhiều cơ quan (ví dụ, hệ thống thần kinh trung ương, tim, gan, da). Nhân rộng tại các địa điểm này có trách nhiệm cho các biểu hiện lâm sàng của nhiễm trùng đường ruột. Việc nhân bản tiếp theo tại các vị trí phổ biến dẫn đến một lượng lớn virus vào máu, tiếp tục cho đến khi vật chủ tạo ra các kháng thể loại đặc hiệu. Sự nhân lên của Enterovirus trong các mô nội tạng dẫn đến cái chết của các tế bào bị nhiễm bệnh, kèm theo viêm và hoại tử.

III. DỊCH TỄ:
 - HFMD xuất hiện trên toàn thế giới. Các dịch vụ liên quan đến các trung tâm giữ trẻ, trường học, trại hè, bệnh viện, các cơ sở quân sự, cộng đồng, các khu vực địa lý rộng lớn và toàn bộ các quốc gia đã được báo cáo.
- Hầu hết các trường hợp HFMD xảy ra ở trẻ sơ sinh và trẻ em, đặc biệt là những trẻ nhỏ hơn năm đến bảy tuổi. Tuy nhiên, các trường hợp lẻ tẻ và dịch bệnh chủ yếu ảnh hưởng đến trẻ lớn hơn, thanh thiếu niên và người lớn đã được báo cáo.
- HFMD thường xảy ra trong mùa hè và đầu mùa thu, tương tự như các hội chứng lâm sàng khác do enteroviruses. Tuy nhiên, các trường hợp bùng phát và lẻ tẻ của HFMD có thể xảy ra trong những tháng mùa đông. Ở các vùng nhiệt đới, các trường hợp mắc bệnh HFMD xảy ra trong mùa mưa.
* Sự lây truyền:
 - Các loại siêu vi gây bệnh HFMD thường được truyền từ người sang người qua đường phân. Tuy nhiên, chúng cũng có thể lây truyền qua tiếp xúc với dịch tiết đường miệng và đường hô hấp, dịch tiết của ban phỏng nước.
- Xét nghiệm khuếch đại acid nucleic chứng minh sự lây lan của enterovirus lên đến 10 tuần qua phân, và lên đến 30 ngày ở đường hô hấp sau khi bắt đầu nhiễm trùng, tùy thuộc vào loại enterovirus và mức độ nghiêm trọng của bệnh. Các phương pháp phát hiện virus truyền thống đã chứng minh sự lây lan qua phân trong bốn đến sáu tuần và sự lây qua đường hô hấp trong ≤3 tuần. Một cuộc điều tra bùng phát bệnh HFMD do coxsackievirus A16 ở một trung tâm chăm sóc ban ngày cho thấy trẻ em bị nhiễm bệnh trong vòng <7 ngày. Cả sự lây nhiễm và sự lan truyền của virus đều có thể xảy ra mà không có dấu hiệu lâm sàng của bệnh.
* Thời gian ủ bệnh:
 - Thời kỳ ủ bệnh của HFMD thường là từ ba đến năm ngày, nhưng đã được báo cáo ngắn nhất là hai ngày và nhiều là bảy ngày.

IV. LÂM SÀNG:
- HFMD thường biểu hiện với các phàn nàn về đau miệng hoặc đau họng (ở trẻ đã biết nói) hoặc từ chối ăn (ở trẻ chưa biết nói). Sốt, nếu có, thường dưới 38,3 ° C (101 ° F).
Triệu chứng giai đoạn khởi phát thường không có. Khi được báo cáo, chúng bao gồm sốt, đau bụng, nôn và tiêu chảy.
Image
Hình 1B
Image
Hình 1A
Image
Hình 2
Image
Hình 5
Image
Hình 6
* Khám lâm sàng:  - phát hiện chủ yếu của HFMD là  các mụn nhỏ nước nhỏ ở miệng (hình 1A-B) và các đám mụn phỏng (hình 2).
- Enterovirus A71 HFMD - HFMD gây ra bởi enterovirus A71 có liên quan đến bệnh nặng, phức tạp do bệnh hệ thần kinh trung ương (viêm cột sống, tê liệt cấp tính, viêm màng não vô khuẩn), phù phổi và xuất huyết, và suy tim .
- Coxsackievirus A6 HFMD - Kể từ năm 2008, một kiểu gen coxsackievirus A6 mới có liên quan đến bệnh nặng hơn ở cả trẻ em và người lớn, bao gồm:
●Sốt cao hơn.
● Phát ban rộng hơn - Sự tham gia của các chi, mặt, môi và vùng hậu môn, mông, háng và đáy chậu (hình 5)
● Tổn thương da sâu rộng hơn (hình 6)
● Thời gian bệnh dài hơn (thời gian trung bình 12 ngày)
● Rối loạn móng tay (ví dụ, các gờ ngang của móng tay [đường kẻ khô], rụng móng [onychomadesis]) một đến hai tháng sau khi HFMD.

V. BIẾN CHỨNG:
- Biến chứng nghiêm trọng của HFMD hiếm khi xảy ra, ngoại trừ với HFMD do enterovirus 71 gây ra. Các biến chứng của HFMD có thể bao gồm:
● Giảm uống, có thể dẫn đến tình trạng mất nước và có thể phải nhập viện để điều trị dịch tĩnh mạch.
● Viêm não.
● Liệt mềm cấp tính.
● Viêm màng não vô khuẩn.
● Viêm cơ tim
● Viêm tụy cấp.
● Xảy thai
● Loét giác mạc

VI. CHẨN ĐOÁN:
 - Việc chẩn đoán HFMD thường dựa trên lâm sàng, dựa trên sự xuất hiện tổn thương ở vị trí điển hình ở miệng (hình 1A-B) và tay - chân (hình 2). Chẩn đoán HFMD có thể khó khăn hơn khi chỉ có tổn thương miệng hoặc chỉ có ở chi. Trong hầu hết các trường hợp, khoảng 75 phần trăm bệnh nhân có tổn thương ở cả hai vị trí, và 10 đến 15 phần trăm chỉ có ở một trong hai vị trí.
- Việc xác định nguyên nhân virus cụ thể hiếm khi cần thiết ở trẻ có HFMD không biến chứng, nhưng có thể được làm nếu chẩn đoán không rõ ảnh hưởng đến việc quản lý và ở các trẻ bị biến chứng .
Khi xác nhận nguyên nhân là cần thiết, cần lấy mẫu cổ họng, phân, và dịch phỏng nước để nuôi cấy tế bào hoặc khuếch đại axit nucleic (ví dụ, phản ứng chuỗi polymerase). Đối với các mẫu từ tất cả các vị trí, khuếch đại axit nucleic được ưu tiên hơn nuôi cấy tế bào do tăng độ nhạy và tốc độ có thể thu được kết quả (giờ so với ngày)

VII. DIỄN BIẾN LÂM SÀNG:
 - HFMD nói chung là một hội chứng lâm sàng nhẹ. Các triệu chứng và dấu hiệu thường thường khỏi hoàn toàn trong vòng 7 đến, nhiều nhất là 10 ngày. Tuy nhiên, các biến chứng có thể xảy ra. (Xem 'Biến chứng' ở trên.)
- Trong một phân tích tổng hợp 19 nghiên cứu từ khu vực châu Á - Thái Bình Dương (do tập trung vào HFMD gây ra bởi enterovirus 71 chứ không phải HFMD cổ điển), HFMD nặng (biến chứng thần kinh, hô hấp hoặc tuần hoàn hoặc tử vong) có liên quan với :
● Nhiệt độ ≥37,5 ° C (99,5 ° F)
● Sốt (≥37,5 ° C [99,5 ° F]) ≥3 ngày
● Lơ mơ
● Nôn mửa
● Nhiễm trùng Enterovirus A71
● Nhỏ tuổi

VIII. PHÂN ĐỘ NẶNG:
1. Độ 1: Chỉ loét miệng và/hoặc tổn thương da.
2. Độ 2: Biến chứng thần kinh hoặc tim mạch mức độ trung bình:
Rung giật cơ: Kèm theo 1 trong các dấu hiệu sau:
- Đi loạng choạng.
- Ngủ gà.
- Yếu liệt chi.
- Mạch nhanh >150 lần/phút (khi trẻ nằm yên và không sốt).
- Sốt cao ≥ 39o5C (nhiệt độ hậu môn).
3. Độ 3: Biến chứng nặng về thần kinh, hô hấp, tim mạch:
- Co giật, hôn mê (Glasgow < 10 điểm).
- Khó thở: Thở nhanh, rút lõm ngực, SpO2 < 92% (không oxy hỗ trợ).
- Mạch nhanh >170 lần/phút hoặc tăng huyết áp.
4. Độ 4: Biến chứng rất nặng, khó hồi phục
- Phù phổi cấp.
- Sốc, truỵ mạch.- SpO2 < 92% với oxy qua gọng mũi 6 lít/phút.
- Ngừng thở.

IX. ĐIỀU TRỊ:
 - Điều trị chủ yếu là hỗ trợ. Trẻ em bị biến chứng có thể phải nhập viện. Không có liệu pháp kháng virus cụ thể nào có sẵn để điều trị các enterovirus. Bộ gen của enterovirus không mã hóa cho thymidin kinase, enzyme cần thiết cho hoạt động của acyclovir. Ngoài ra, các thử nghiệm đối chứng chứng minh bằng chứng về lợi ích của acyclovir ở bệnh nhân HFMD còn thiếu.
- Chỉ định nhập viện - Chỉ định nhập viện ở trẻ em mắc bệnh HFMD có thể bao gồm:
● Không có khả năng duy trì đủ nước
● Phát triển các biến chứng thần kinh hoặc tim mạch, chẳng hạn như: Viêm não, Viêm màng não, Liệt mềm, Viêm cơ tim .
* Chăm sóc hỗ trợ:
 - Cơn đau và sốt thường ngắn ngủi. Đau và khó chịu do sốt có thể được quản lý bằng ibuprofen hoặc acetaminophen, mặc dù các thuốc này nên tránh ở trẻ bị mất nước cho đến khi đạt được hiệu chỉnh thể tích. Trong trường hợp nặng opioid uống có thể được yêu cầu.
- Chúng tôi thường không khuyến cáo liệu pháp tại chỗ có chứa lidocain hoặc các phương pháp điều trị tại chỗ khác (ví dụ như diphenhydramine, Kaolin pectin) để bôi vào tổn thương miệng và / hoặc làm dịu cơn đau ở trẻ bị HFMD do thiếu bằng chứng về lợi ích từ các thử nghiệm lâm sàng, khả năng gây hại (ví dụ, độc tính từ hấp thụ toàn thân, phản ứng dị ứng), và khó khăn trong việc áp dụng ở trẻ nhỏ.
- Trẻ em không thể uống đủ nước để duy trì độ ẩm nên được nhập viện để điều trị bằng chất lỏng tiêm.

------------------------------- BS Đặng Ngọc --------------------------------------